Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (36)


Xem mục lục

5. Chí tâm tinh tấn  

Phẩm này tiếp ý phẩm trước. Pháp Tạng Bồ Tát phát đại nguyện rằng: Tôi đã phát tâm Vô Thượng Chánh Giác, lúc tôi thành Phật: quốc độ, Phật hiệu đều nổi tiếng mười phương, hết thảy hữu tình cho đến cả các loài trùng bọ hễ sanh vào nước tôi đều thành Bồ Tát, chẳng có thừa nào khác [ngoài Bồ Tát thừa] và nguyện rằng do Nhất Thừa nguyện hải vừa được phát khởi ấy cõi nước của tôi sẽ siêu việt vô số cõi Phật. Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai đáp ứng lời thỉnh, hiện cho Pháp Tạng thấy cả hai trăm mười ức cõi Phật. Pháp Tạng liền tu tập siêng gắng trong năm kiếp, kết thành nguyện thù thắng, nhiếp thọ cõi nước vượt trội xa cả hai trăm mười ức Phật sát ấy. Do vậy, phẩm này mang tên Chí Tâm Tinh Tấn.

‘Chí tâm’ là các thứ tâm hạnh chí thành vô thượng như trong kinh dạy. Hiểu sâu hơn, Pháp Tạng sau khi đích thân được thấy vô biên Phật sát ‘liền nhất tâm chọn lựa lấy những điểm mình thích’. ‘Nhất tâm’ tức là ‘chí tâm’ vậy. ‘Tinh tấn’‘siêng năng gắng gỏi, cung kính, thận trọng gìn giữ, tu tập công đức trọn cả năm kiếp’ ‘thành tựu hạnh trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh’.

 Chánh kinh:

Tỳ kheo Pháp Tạng nói bài kệ ấy xong liền bạch Phật rằng:

- Con nay hành Bồ Tát đạo đã phát tâm Vô Thượng Chánh Giác, phát nguyện thành Phật ngõ hầu được như đức Phật. Nguyện Phật vì con rộng tuyên kinh pháp, con sẽ phụng trì, tu hành đúng như pháp, nhổ các cội rễ sanh tử nhọc nhằn, chóng thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Con muốn khi mình được thành Phật: trí huệ, quang minh, quốc độ mình ở, giáo thọ, danh hiệu đều nổi tiếng mười phương. Chư thiên, nhân dân và các loài bay, bò.... hễ sanh về nước con đều là Bồ Tát. Nguyện con lập đây: [‘Cõi nước của con] thù thắng hơn vô số nước của chư Phật’] có thể đạt được chăng?

  Giải: Ðoạn kinh văn này tiếp ý đoạn trước, nối kết đoạn sau. Trong phẩm trước, Pháp Tạng dùng kệ tỏ bày thệ nguyện; trong đoạn kinh này, ngài dùng lối văn trường hàng để bạch Phật: ‘Ðã phát tâm Vô Thượng Chánh Giác’. Ðấy là vì: điều quan trọng để nhập đạo là trước hết phải phát tâm; việc cần gấp trước hết trong tu hành là phải lập nguyện. Vì vậy, Bồ Tát Pháp Tạng sau khi phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề, mong kết đại nguyện vượt trỗi hơn vô số cõi Phật nên ngài thỉnh đức Thế Tôn vì mình diễn giảng kinh pháp.

Ðại ý của đoạn kinh này là: Con nay lúc hành Bồ Tát đạo, đã phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề. Nguyện lúc thành Phật, hết thảy đều được như Phật. Vì vậy, xin đức Thế Tôn vì con rộng nói kinh pháp, con sẽ phụng trì, tu hành đúng như pháp. Nguyện vĩnh viễn lìa khỏi hết thảy gốc sanh tử nhọc nhằn. Ấy là vì sanh tử rất khổ, nó lại chẳng cạn kiệt nên bảo là ‘nhọc nhằn’. Muốn trừ sanh tử khổ quả phải nhổ rễ nó. Rễ của nó chính là các hoặc: kiến, tư, trần sa, vô minh... Do đoạn sạch các hoặc nên bảo là ‘Nhổ các cội rễ sanh tử nhọc nhằn’. Lại nguyện chóng thành Chánh Giác. Nghĩa của chữ ‘chóng’ trong đoạn kinh này giống như chữ ‘chóng’ trong câu ‘chóng sanh về cõi tôi hưởng an vui’ của phẩm trước. Hai chữ ‘chóng’ này cùng nói về nhất tâm. Bồ Tát Pháp Tạng tâm độ sanh khẩn thiết nên nguyện: ‘Các loài chúng sanh luân hồi trong các đường chóng sanh cõi tôi hưởng an vui’.

Câu ‘chư thiên, nhân dân và các loài trùng bay, bò... sanh trong cõi tôi đều là Bồ Tát’ ý nói: Các loài quần sanh sanh về nước tôi chẳng có Nhị Thừa, chỉ là Bồ Tát, đều thuộc địa vị Bổ Xứ. Vì vậy, đại nguyện của ngài Pháp Tạng thật là Nhất Thừa nguyện hải.

‘Ðều thành Phật quả’ là Nhất Thừa, chẳng có hai hay ba thừa. Vì vậy, ba bậc vãng sanh đều cần phải phát Bồ Ðề tâm. Rõ ràng, muốn mau thành Phật chỉ để chóng được độ sanh. Vì muốn độ sanh nên lúc thành Phật cần phải đạt được ‘trí huệ,  quang minh, quốc độ mình ở, giáo thọ, danh hiệu đều nổi tiếng cả mười phương’. Ðây chính là căn bản của nguyện thứ mười bảy ‘chư Phật khen ngợi’, nguyện thứ mười tám ‘mười niệm ắt vãng sanh’, nguyện thứ mười chín ‘nghe tên phát tâm’ trong bốn mươi tám đại nguyện vậy. Muốn khiến cho mười phương chúng sanh nghe danh hiệu Phật liền phát được tâm Bồ Ðề, một dạ chuyên niệm thậm chí chỉ mười niệm cũng đều được vãng sanh. Như vậy, chúng sanh đắc độ trước hết là do nghe danh. Do vậy, Pháp Tạng Bồ Tát nguyện lúc thành Phật thì quang minh, trí huệ của Phật, cõi nước thù diệu siêu thắng, công đức, danh hiệu của Ðạo Sư (tức giáo chủ Di Ðà) vang dội mười phương. Do vậy, chúng sanh nghe danh, phát tâm liền được sanh Cực Lạc, quyết định thành Phật.

Câu cuối trong đoạn kinh văn này là lời thỉnh Phật chứng minh: ‘Nguyện con lập đây: [cõi nước] thù thắng hơn vô số nước của chư Phật có thể đạt được chăng?’. Nguyện ‘cõi Phật đã thành sẽ thù thắng hơn các cõi Phật’ đó chẳng biết có thể thành tựu được chăng, xin Phật dạy cho.

Ngoài ra, trong đoạn kinh trên, chữ ‘hành’ trong ‘hành Bồ Tát đạo’ là thực hành. ‘Vô Thượng Chánh Giác’ là cách nói gọn chữ ‘Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác’, tiếng Phạn là “A nậu đa la tam miệu tam Bồ Ðề”. ‘Kinh pháp’ là lời do kim khẩu đức Phật nói ra, là thường pháp cho muôn đời nên gọi là kinh pháp. ‘Phụng trì’ chính là chữ ‘phụng hành’ thường dùng, có nghĩa là ‘kính vâng nhận lấy’‘hành trì’. Do vậy, cuối các kinh thường ghi là ‘tin nhận, phụng hành’ ý nói: kính nhận lấy, tuân hành, cung kính gìn giữ.

‘Giáo thọ’: dạy truyền thánh ngôn gọi là ‘giáo’, giảng giải nghĩa lý là ‘thọ’, tức là dạy dỗ và truyền thọ nghĩa lý kinh pháp. Các thiện tri thức như vậy được gọi là ‘giáo thọ thiện tri thức’. Trong đoạn kinh trên đây, ‘giáo thọ’ là cách nói giản lược về công hạnh của bậc đạo sư.

 Chánh kinh: Thế Gian Tự Tại Vương Phật liền vì Pháp Tạng mà nói kinh rằng:

- Ví như có kẻ dùng đấu đong biển cả, trải bao kiếp số còn chẳng đến đáy; người chí tâm cầu đạo tinh tấn chẳng ngơi ắt đều thành công, nguyện gì chẳng được. Ông tự suy nghĩ tu phương tiện nào để thành tựu được cõi Phật trang nghiêm. Việc tu hành như thế ông nên tự biết, với việc thanh tịnh cõi Phật ông nên tự nhiếp.

 Giải: Ðại ý của đoạn kinh này là Phật bảo Pháp Tạng rằng: giả sử có một người dùng đấu để đong nước trong biển cả, dẫu trải qua cả kiếp vẫn chẳng thể thấy được đáy biển; nhưng người dùng tâm chí thành cầu đạo, tinh tấn chẳng ngơi ắt sẽ đắc quả. Hơn nữa, có nguyện nào mà chẳng thể đạt được.

Trong cuốn Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận, cư sĩ Bành Thiệu Thăng giảng: ‘Như ngài Pháp Tạng nói: ‘‘Con phát tâm Vô Thượng Chánh Giác’’ thì nên biết rằng hết thảy các nguyện vương xuất sanh từ Vô Thượng Chánh Giác, hết thảy Tịnh Ðộ do đây được kiến lập. Vừa mới phát tâm, ngay lúc ấy Cực Lạc trang nghiêm đã trọn vẹn. Vì vậy, kinh nói: ‘‘Chí tâm cầu đạo tinh tấn chẳng ngơi, ắt đều thành công, nguyện gì chẳng được’’. Vì sao thế? Vì hết thảy pháp chẳng ngoài tự tâm vậy’. Thuyết của ông Bành tỏ rõ bổn ý của đức Thế Tôn trong lời đáp vậy. Ấy là vì phát khởi tâm chí thành nên tâm ấy ắt hàm chứa thánh quả. Vì nhân đã cùng tột quả hải nên hoa quả đồng thời, chỉ cần tinh tấn thì nguyện gì chẳng thành; hết thảy nhân quả chẳng lìa tự tâm, chẳng có pháp nào ngoài tự tâm cả.

Trong đoạn tiếp theo, dùng liên tiếp ba chữ ‘tự’: ‘Ông tự suy nghĩ’, rồi: ‘ông tự nên biết’, và ‘ông nên tự nhiếp’ là đức Thế Tôn chẳng đáp trực tiếp, lại phải dùng đến ba chữ ‘tự’; thật là tấm lòng tha thiết, tâm ý sâu xa. Trong sách Hội Sớ, ngài Tuấn Ðế người Nhật đã giải thích như sau: ‘Câu ‘‘ông tự nên biết’’ có ý giống như ba lượt ngăn không cho nói trong kinh Pháp Hoa: nghĩa lý đó sâu xa quá chẳng thể nói một cách dễ dàng được’. Thuyết này rất hay, câu kinh: ‘Thôi thôi chớ nên nói’ của kinh Pháp Hoa có cùng ý nghĩa với câu kinh này. Lục Tổ bảo: ‘Ðiều ẩn mật ở ngay nơi ngươi’, bậc cổ Thiền đức nói: ‘Ông tự hiểu nhận lấy cái hay, tôi chẳng giống ông’ cũng chính là ý nghĩa của ba chữ ‘tự’ trong đoạn kinh ở đây. Ngài Tuấn Ðế giảng tiếp rằng:

‘Câu này có ba nghĩa:

a. Từ xưa, Pháp Tạng Bồ Tát đã gieo trồng [thiện căn] sâu dày, cao tài, dũng triết siêu dị hơn đời; đối với việc nghiêm tịnh Phật quốc, ngài đã rõ thấu từ lâu. Phật trí không gì không biết nên ngài dạy: ông biết như thế nào thì cứ tự thực hành như thế (điều này lại chứng minh rằng ngài Pháp Tạng là từ quả hướng nhân).

b. Nhiếp thủ Phật quốc đều tùy theo ý thích: hoặc chọn lấy uế độ, hoặc cầu cõi thanh tịnh, hoặc dung nhiếp tam thừa, hoặc nguyện Nhất Thừa. Vì vậy, tùy lòng ưa thích của Bồ Tát mà chọn lấy chẳng cần tuân theo ý chỉ của Như Lai.

c. Phàm là cõi Tịnh Ðộ, ắt có cõi là báo độ hay hóa độ. Pháp báo cao diệu, Bồ Tát chẳng có phần, chỉ nên thuận theo sức mình mà nhiếp thủ nên bảo: ‘Ông tự nên biết’.

‘Chỉ nên thuận theo sức mình’ chính là điều Tịnh tông dạy: những việc thuộc về Pháp Thân vượt khỏi khả năng của Bồ Tát, phàm phu chẳng thể lãnh hội được nghĩa lý này. Trong đoạn kinh tiếp theo đây, Pháp Tạng Bồ Tát lại thỉnh cầu lần nữa.

 Chánh kinh: Pháp Tạng bạch rằng:

- Nghĩa ấy sâu thẳm chẳng phải là cảnh giới của con, kính xin đấng Như Lai Ứng Chánh Biến Tri diễn rộng vô lượng diệu sát của chư Phật. Nếu con được nghe những pháp như vậy, tư duy, tu tập, thề sẽ viên mãn sở nguyện.

 Giải: ‘Cảnh’ là những điều tâm mình cảm thọ, nghĩ tưởng đến, như sắc là cái được nhãn thức cảm thọ nên gọi là sắc cảnh, cho đến pháp là điều được ý thức cảm thọ nên gọi là pháp cảnh. Xét về lý Thật Tướng, điều gì được diệu trí cảm thọ đều gọi là Cảnh, cũng thuộc về pháp cảnh. Giới là khu vực. ‘Cảnh giới’ là cảnh, phần hạn, khu vực được quán.

Sách Vô Lượng Thọ Kinh Tiên Chú lại bảo: ‘Khu vực mà sức thế lực của mình ảnh hưởng đến cũng như phần hạn của quả báo ta đạt được đều gọi là cảnh giới’.

‘Diễn’ là tuyên thuyết. ‘Như Lai Ứng Chánh Biến Tri’ là ba hiệu trong số mười hiệu từ Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri đến Phật. Ở đây chỉ nói tượng trưng về mười hiệu của Phật.

Ðại ý của đoạn kinh này là: Pháp Tạng Bồ Tát thưa: Nghĩa ấy quá sâu, vượt ngoài cảnh giới của con (nếu nói một cách thông thường, ta có thể miễn cưỡng hiểu cảnh giới là trình độ hiểu biết). Vì vậy, lại thỉnh Phật nói rộng vô lượng cõi Phật, con nghe xong rồi nhất định có thể tu hành đúng pháp, trọn vẹn sở nguyện.

Sư Tuấn Ðế bảo:

Câu ‘‘Nghĩa ấy sâu thẳm chẳng phải là cảnh giới của con’’ cũng có ba nghĩa:

- Con đã biết cách thức thông thường của việc Bồ Tát trang nghiêm Tịnh Ðộ rồi, còn cách để đạt Tịnh Ðộ tối thắng trong các cõi Phật thì nghĩa ấy quá sâu thẳm, chẳng phải là cảnh giới của con.

- Quả thật tuy là tùy theo sự ưa thích của mỗi người mà tự chọn lấy Tịnh Ðộ, nhưng nay con muốn cả năm thừa cùng được thâu tóm vào trong báo độ thì nghĩa ấy quá sâu thẳm, chẳng phải là cảnh giới của con (báo độ là chỗ Pháp Thân Ðại Sĩ ở. Nay khiến cho Nhị Thừa và nhân, thiên cùng thuộc vào báo độ thì đấy chẳng phải là điều phàm phu thấu hiểu nổi).

- Tuy pháp báo cao diệu Bồ Tát chẳng có phần, con có thể trong vô lượng kiếp quyết sẽ đạt được (trải qua vô lượng kiếp ắt sẽ chứng ngộ Pháp Thân và báo thân, nhưng lúc này chưa có phần nên bảo là ‘chẳng phải cảnh giới của con). Nghĩa ấy hoằng thâm (rộng lớn là hoằng, u viễn là thâm) chẳng phải là cảnh giới của con.

Tuy có ba nghĩa khác nhau, nhưng bỏ đi phần mình để chuyên hướng về Phật lực. Ðấy chính là Pháp Tạng Bồ Tát tự mở ra tha lực môn vậy’.

Thuyết ‘mở ra tha lực môn’ của ngài Tuấn Ðế thật đã chỉ rõ sự thật mầu nhiệm siêu tình ly kiến chẳng thể nghĩ bàn, phương tiện rốt ráo quả giác nhân tâm của Tịnh tông. Thuyết của sư Tuấn Ðế có thể hiểu thô thiển như sau:

Pháp Tạng Bồ Tát nói ‘chẳng phải cảnh giới của con’ là có ba ý nghĩa:

- Một, con tuy đã biết đường lối chung để tạo dựng Tịnh Ðộ của các Bồ Tát, nhưng nay muốn tạo dựng cõi Tịnh Ðộ tối thắng vượt hơn hẳn các cõi Phật thì đó ‘chẳng phải là cảnh giới của con’.

- Hai, Tịnh Ðộ được chọn giữ lấy đó trên thực tế tuy là tùy theo ý thích của mỗi cá nhân, nhưng nay con muốn gom trọn hành nhân cả năm thừa đều được sanh vào cõi nước của báo thân Phật, trong mười phương không có cõi nào như vậy nên đó ‘chẳng phải là cảnh giới của con’. Năm thừa là: nhân thiên thừa, Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, Bồ Tát thừa, Phật thừa (Như Lai thừa). Nay muốn khiến cho hành nhân cả năm thừa cùng vào được cõi của báo thân Phật thật là khác hẳn thường tình. Nhân thiên thừa là phàm phu. Thanh Văn, Duyên Giác là Tiểu thừa. Nay muốn khiến cho hành nhân phàm phu được hệt như Ðại thừa và đại Bồ Tát của Nhất Phật Thừa cùng chứng cõi Thật Báo Tịnh Ðộ thì nghĩa ấy rất sâu nên nói rằng: ‘Chẳng phải là cảnh giới của con’.

- Ba, cảnh giới cao diệu của Pháp Thân và Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ, báo thân và Thật Báo Trang Nghiêm độ chẳng phải là hạnh thông thường của hết thảy Bồ Tát, nhưng con có thể trong vô lượng kiếp chuyên tinh tu tập sẽ chứng đắc nổi. Chỉ vì hiện giờ con chưa đủ sức nên bảo là ‘chẳng phải cảnh giới của con’.

Lời đáp này của Pháp Tạng Bồ Tát tuy có ba nghĩa khác nhau, nhưng đều là ‘bỏ đi sức mình, chuyên cậy Phật lực’. Bốn chữ ‘phi ngã cảnh giới’ (chẳng phải là cảnh giới của con) chính là bỏ đi sức mình, thỉnh Phật khai thị chính là chuyên cậy Phật lực.

Trong đoạn văn trước đó, Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai đáp: ‘Ông tự tư duy’, ‘ông tự nên biết’‘ông nên tự nhiếp’, ba chữ ‘tự’ đều chỉ tự tánh của đương nhân, khai hiển diệu tâm, chính là huyền chỉ ‘tâm này là Phật’ của kinh Quán Vô Lượng Thọ. Muốn cho hết thảy chúng sanh hiểu được điểm căn bản này, nhận thức được linh tánh của mình mới có thể sanh khởi vô lượng vô biên diệu hạnh tự giác giác tha nên Pháp Tạng Bồ Tát lại thỉnh lần nữa: ‘Chẳng phải là cảnh giới của con’ xin Phật rộng dẫn để tỏ vẻ kính mộ chư thánh vậy.

Sư Tuấn Ðế nói: ‘Ðấy chính là Pháp Tạng tự mở ra tha lực môn vậy’. Một lời này mở toang điều huyền vi của Tịnh tông, thế gian thường gọi Tịnh tông là Tha Lực Môn. Sở dĩ Tịnh tông có thể khắp thích ứng cả ba căn, một đời thành Phật, phàm phu, Nhị Thừa cùng chứng bất thối đều là nhờ vào Nhất Thừa nguyện hải của Phật Di Ðà, oai lực của sáu chữ hồng danh. Ðó chính là ‘cậy vào tha lực’. Sở dĩ Tịnh tông là phương tiện rốt ráo là vì đã lấy Vô Thượng Quả Giác của Phật Di Ðà làm sơ tâm tu nhân cho chúng sanh. Nhân đã tột cùng quả hải, quả lại thấu triệt nguồn nhân; nhân quả đồng thời, cảm ứng khó nghĩ bàn. Ðấy chính là diệu dụng của Tha Lực Môn.

Hơn nữa, ngoại thánh thì dễ tin, cái linh tri trong tâm mình thì khó rõ. Do vậy, phàm phu đầy rẫy phiền não chỉ có thể tin rằng ‘Có một thế giới tên là Cực Lạc, cõi ấy có Phật hiệu A Di Ðà’. Tin sâu xa vào hai chữ ‘có’ ấy mà khẩn thiết nguyện được vãng sanh, một dạ trì danh thì được như nguyện, chứng lên bất thối. Ðấy là điều phàm phu có thể thực hiện nổi. Nếu chỉ nói thấu hiểu tự tâm đến cùng tột ắt chỉ bậc thượng trí mới kham nổi!

Trong lúc tu nhân, Pháp Tạng bi nguyện sâu thẳm, khai hiển pháp môn tha lực này, nên Di Ðà được xưng tụng là Ðại Nguyện Vương.

Ngoài ra, Mật tông cũng là Tha Lực Môn, cũng thuộc về Quả Giáo, cũng là từ quả khởi tu.

Tha Lực Môn thù thắng khó suy nghĩ nổi này chính là điểm cùng tột của Di Ðà bi nguyện, cũng chính là chỗ phương tiện rốt ráo của cả hai tông Tịnh và Mật. Ðó là bởi tự, tha vốn bất nhị, chỉ chịu cậy vào tha lực thì mới sanh nổi lòng tin trong sạch nơi pháp khó tin này. Khó tin mà tin nổi toàn là do trí huệ vô thượng của đương nhân, đấy lại chính là tự lực. Chỉ cần tin nhận, niệm Phật ròng rặt thì tự nhiên năng, sở đều mất, tự tâm hiện rõ, từ sự trì đạt đến lý trì, tâm phàm biến thành tâm Phật. Cái nhiệm mầu của Tịnh tông toàn là ở điểm này!

Pháp Tạng Bồ Tát sau khi bày tỏ ‘chẳng phải cảnh giới của con’ liền khải thỉnh Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai vì mình diễn rộng vô lượng cõi nước thắng diệu của chư Phật, ngài được nghe các cõi nước mầu nhiệm và cách thức nhiếp thủ các cõi như vậy sẽ tư duy, tu tập, thề sẽ viên mãn điều ngài phát nguyện.

 Chánh kinh: Thế Gian Tự Tại Vương Phật biết ông ta cao minh, chí nguyện sâu rộng, liền vì ông ta tuyên thuyết công đức nghiêm tịnh, tướng trạng viên mãn rộng lớn của hai trăm mười ức các cõi nước Phật, ứng theo tâm nguyện ông ta đều hiện cho thấy. Lúc nói pháp ấy trải qua một ngàn ức năm.

 Giải: ‘Cao’ là trên, cao vợi, xa thẳm. ‘Minh’ là sáng, chiếu, thông suốt. Sách Hội Sớ giảng: ‘Cao minh: ý nói đức hạnh đầy đủ. “Sâu rộng” là nói về nguyện tâm, nghĩa là: trì giới, thiền định siêu thắng thế gian nên bảo là Cao. Phương tiện, Bát Nhã chiếu các pháp đến cùng tột nên bảo là Minh. Chiếu cùng tột đời vị lai chẳng nhiễu loạn (ý nói: có thể chiếu xa đến cùng cực đời vị lai, nhưng chẳng gây trở ngại) nên bảo là Sâu, bao trùm hết thảy không sót nên bảo là Rộng’. ‘Liền vì ông ta tuyên thuyết’ là Phật thuyết pháp.

‘Ðều hiện cho thấy’ nghĩa là Phật hiện ra các cõi nước ấy. Thế Gian Tự Tại Vương Phật tuyên thuyết, thị hiện tướng trạng viên mãn rộng lớn, công đức nghiêm tịnh của hai trăm mười ức các cõi của chư Phật. ‘Nghiêm tịnh’ là trang nghiêm, thanh tịnh. Trong hai chữ ‘viên mãn’, ‘viên’ nghĩa là trọn khắp, tánh thể trọn khắp là Viên; ‘mãn’ nghĩa là đầy đủ. Vì vậy, ‘viên mãn’ còn được gọi là ‘viên túc’. Như vậy, ‘viên mãn’ chính là huyền nghĩa ‘viên minh cụ đức’ của tông Hoa Nghiêm.

Với ‘hai trăm mười ức cõi’ ắt có kẻ nghi rằng: Ngay khi ấy, Pháp Tạng Bồ Tát chỉ thấy có hai trăm mười ức cõi, sao lại bảo rằng quốc độ của ngài tạo dựng ‘thù thắng hơn vô số quốc độ của chư Phật’? Có hai cách trả lời câu vấn nạn này:

- Theo phẩm Hoa Tạng Thế Giới trong kinh Hoa Nghiêm, cõi Phật vô lượng nhưng nói chung có hai mươi tầng, các cõi nước vây quanh các cõi ấy số đến hai trăm mười vi trần số. Nay trong kinh này, cũng lấy con số hai trăm mười để chỉ số các cõi nước thì đã ngầm hợp với nghĩa lý kinh Hoa Nghiêm, hàm nhiếp vô lượng cõi nước trong mười phương.

- Hai là như Trí Ðộ Luận bảo: ‘Khi xưa, Phật A Di Ðà làm Pháp Tạng tỳ kheo được Phật dẫn đến khắp mười phương chỉ cho cõi nước thanh tịnh để chọn lựa nước tịnh diệu nhất để tự trang nghiêm cõi nước mình’. Như vậy, kinh dùng ‘hai trăm mười ức cõi’ để phiếm chỉ cõi Phật mười phương.

Hơn nữa, hai trăm mười ức cõi nước chỉ là những ‘quốc độ thanh tịnh’ hay là tính cả những uế độ? Cổ đức căn cứ các câu kinh ‘trời, người, thiện, ác’, ‘quốc độ thô, diệu’ mà lập ra hai thuyết khác nhau:

- Một là như Gia Tường Sớ ghi: ‘Về mặt nhân lành, hai trăm mười ức cõi Phật tuy có phân chia hơn, kém, nhưng các cõi nước được chiêu cảm đều bằng bảy báu hóa hiện một cách thô diệu. Thô là to lớn, diệu là đẹp đẽ. Ý kinh bảo hai trăm mười ức cõi nước được ứng hiện ấy đều là cõi to lớn, đẹp đẽ mà thôi’. Như vậy, ngài Gia Tường cho rằng cõi nước đã hiện chỉ là Tịnh Ðộ.

- Hai là Phật hiện cả cõi nước tịnh lẫn uế. Tịnh Ảnh Sớ chép: ‘Thô là chẳng tinh. Nói đến cái ác, cái thô để xa lìa. Nói đến cái lành, cái đẹp là để tu tập’, nghĩa là: hai trăm mười ức cõi Phật được nói đó có cả tịnh lẫn uế. Các vị Cảnh Hưng, Nghĩa Tịch, Huyền Nhất, Vọng Tây cũng đều cho rằng có cả tịnh lẫn uế độ được hiện. Kinh Bi Hoa dạy: ‘Cõi Phật được hiện hoặc có thế giới nghiêm tịnh, hảo diệu, cho đến hoặc có thế giới có đại hỏa tai’. Câu này chứng tỏ trong những cõi nước được hiện có cả uế độ.

Hơn nữa, cõi nước được hiện có cõi là báo độ, có cõi là hóa độ. Kinh Bi Hoa nói: ‘Hoặc có thế giới thuần là Bồ Tát đầy khắp trong nước, chẳng có danh từ Duyên Giác, Thanh Văn’. Ðấy là cõi của báo thân Phật. Kinh cũng nói: ‘Hoặc có thế giới thanh tịnh, vi diệu, không có các trược ác’, đấy chính là Tịnh Ðộ của hóa Phật.

Lúc bấy giờ, đức Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai ‘ứng theo tâm nguyện của ông ta (Pháp Tạng tỳ kheo)’ liền đều hiện cho thấy các hình tướng của cả hai trăm mười ức cõi Phật báo, hóa, tịnh, uế. Câu ‘Lúc nói pháp ấy trải qua ngàn ức năm’ thuật chi tiết về việc thuyết pháp, hiện cõi nước tường tận, lại còn ngụ ý: thời gian cũng kéo dài hay rút ngắn vô ngại.

 Chánh kinh: Lúc bấy giờ, Pháp Tạng nghe lời Phật dạy thảy đều thấy rõ, khởi phát nguyện thù thắng vô thượng. Với thiên, nhân, thiện, ác, quốc độ thô, diệu của các cõi ấy đều tư duy đến rốt ráo, ngài liền dốc một lòng chọn lựa lấy điều mình mong muốn kết thành đại nguyện, siêng gắng cầu lấy, cung kính, thận trọng gìn giữ, hành trì, tu tập công đức trọn đủ năm kiếp. Với các công đức trang nghiêm của hai mươi mốt câu chi cõi Phật kia, ngài hiểu rõ, thông đạt như một cõi Phật. Cõi nước được ngài nhiếp thọ siêu việt các cõi kia.

 Giải: ‘Thấy’ (đổ) là thấy. Sách Bình Giải giảng: ‘Ðổ là thấy bằng mắt, Kiến là thấy bằng Huệ như cái thấy của ‘kiến phần’ (2) Chữ “đổ kiến” (tạm dịch thấy rõ)  có ý nghĩa: suy cầu và soi xét’.

Ngay lúc ấy, ngài Pháp Tạng đối với hai trăm mười ức cõi Phật do đức Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai hiện ra đều tận mắt thấy, tâm hiểu rõ cả. Nếu ai ngờ vực Pháp Tạng tỳ kheo còn đang tu nhân làm sao trông thấy khắp các cõi nước tịnh diệu của mười phương chư Phật nổi, tôi xin đáp rằng: Kinh Pháp Tập dạy: ‘Bồ Tát Ma Ha Tát đắc thiên nhãn của đức Phật Như Lai ấy’, Trí Ðộ Luận cũng nói: ‘Thiên nhãn thấy cùng tột, bất động nhưng đến khắp nơi. Mười phương chẳng đến [chỗ tỳ kheo], tỳ kheo cũng chẳng đi qua đấy nhưng giống như thiên nhãn của Phật nên cùng một lúc trông thấy rõ cả mười phương cõi nước’. Dựa theo các kinh, luận trên ta thấy được rằng Pháp Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát nương thần lực gia bị của Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai, được thiên nhãn như Phật nên có thể bất động mà thấy trọn mười phương. Với các cõi nước Phật đã nói, ông đều trông thấy, hiểu rõ cả.

Trong câu ‘khởi phát nguyện thù thắng vô thượng’, chữ ‘khởi’ nghĩa là phát khởi. Nguyện ấy không gì hơn được nên gọi là ‘vô thượng’. ‘Thù thắng’: sự gì siêu tuyệt, hy hữu thì gọi là ‘thù thắng’. Sách Hội Sớ giảng: ‘Không gì hơn được nguyện này nên bảo là “vô thượng”. Siêu thắng các nguyện nên bảo là “thù thắng”. Ðó là vì trang nghiêm vô thượng, hưởng vui vô thượng, quang minh, thọ lượng vô thượng, danh hiệu vô thượng, chánh nhân vãng sanh vô thượng, lợi ích vô thượng. Ðấy chính là đại thể của cả bốn mươi tám nguyện’.

‘Thiên, nhân, thiện, ác’: Phán định về tánh thiện, ác có nhiều thuyết bất nhất. Ở đây, tôi chỉ giới thiệu các thuyết trọng yếu nhất:

  - Một, kinh Bồ Tát Anh Lạc coi thuận theo Ðệ Nhất Nghĩa Ðế là thiện, trái nghịch Ðệ Nhất Nghĩa Ðế là ác. Kinh dạy: ‘Thoạt tiên, tâm thức của hết thảy chúng sanh khởi lên một ý tưởng trụ vào duyên. Thuận theo Ðệ Nhất Nghĩa Ðế mà khởi thì gọi là thiện, trái nghịch Ðệ Nhất Nghĩa Ðế mà khởi thì gọi là ác’. Ðệ Nhất Nghĩa Ðế mà kinh vừa nói chính là Chơn Ðế, Thánh Ðế, Chơn Như, Thật Tướng, Trung Ðạo v.v... cũng chính là Thật Tế lý thể. ‘Ðế’ là đạo lý chơn thật. Ðạo lý ấy là bậc nhất trong các pháp nên gọi là Ðệ Nhất Nghĩa Ðế. Nếu chúng sanh khởi một niệm thuận với lý thể thì là thiện, trái lý thể thì thành ác. Cách phán định này lấy lý thể làm chuẩn.

  - Hai, Duy Thức Luận coi các hành pháp dù hữu lậu hay vô lậu nhưng thuận ích cho đời này, đời sau là thiện; những hành pháp hữu lậu tổn nghịch đời này, đời sau là ác. Luận viết: ‘Có thể thuận ích cho đời này, đời khác thì gọi là thiện. Quả vui trong cõi trời, người tuy thuận ích cho đời này nhưng chẳng thuận ích đời sau nên chẳng được gọi là thiện. Gây tổn hại cho đời này, đời sau thì gọi là bất thiện. Khổ quả trong đường ác tuy là tổn nghịch cho đời này nhưng chẳng tổn hại đời sau nên chẳng gọi là bất thiện’. Ðây là cách phán định thiện, ác trên quan điểm thuận ích hay tổn nghịch.

- Ba là như ngài Tịnh Ảnh phán định ba thứ thiện, ác:

a. ‘Thuận ích là thiện, tổn nghịch là ác’. Cách phán định này giống với Duy Thức Luận.

b. ‘Thuận lý là thiện, nghịch lý là ác’. Lý là vô tướng tánh không. Ví dụ như: khi thực hành bố thí, nếu có thể với người thí, kẻ nhận, và vật được thí đều thấy thể của chúng là không, chẳng có gì thì là thuận theo Lý. Vô tướng mà hành là thiện. Nếu còn ý tưởng có kẻ thí, người nhận, vật đem bố thí thì là trái lý, là hữu tướng hành nên là ác. Như vậy, thiện pháp đã tu của các vị kể từ Phật, Bồ Tát xuống đến A La Hán mới là thiện. Thiện pháp của chúng sanh tu đều là hữu tướng hạnh nên gọi là ác.

c. ‘Thuận theo thể là thiện, trái với thể là ác’.Quan điểm này vừa tương đồng cách phán định thứ hai vừa giống với quan điểm của kinh Anh Lạc. Chơn tánh của pháp giới là tự thể của chính mình. Thể tánh duyên khởi trở thành hạnh đức, sở hạnh chỉ là tự thể; tâm không duyên vào đâu, tùy theo ý thích mà chẳng phạm giới, đấy mới là Thiện. Theo quan điểm này, chẳng luận phàm phu, Nhị Thừa, kể cả tam thừa (Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát) dẫu làm điều thiện mà còn có chỗ duyên vào thì đều là ác cả.

  - Bốn là như tông Thiên Thai lập ra sáu thứ thiện ác:

a. Cái thiện trong trời, người. Ngũ giới, thập thiện là sự thiện, nhưng khi quả báo cõi trời người đã hết, lại đọa trong ba ác đạo nên cũng là ác.

b. Cái thiện của Nhị Thừa: xa lìa cái khổ tam giới nên gọi là thiện, nhưng chỉ tự độ, chẳng độ được người nên cũng là ác.

c. Cái thiện của Bồ Tát: từ bi cứu vớt hết cả nên là thiện, nhưng chưa đoạn một mảy phiền não nên gọi là ác.

d. Cái thiện của tam thừa trong Thông giáo: tam thừa cùng đoạn được kiến tư phiền não nên là thiện, nhưng rớt vào nhị biên, chẳng thấy được lý Trung Ðạo của Biệt giáo, chưa đoạn được một phần vô minh nên cũng là ác.

e. Cái thiện của Bồ Tát trong Biệt giáo: Thấy được lý Trung Ðạo là thiện, nhưng vẫn còn cách biệt Trung Ðạo, chẳng thể thấy được Diệu Trung viên dung của Viên giáo, sở hành còn vướng trong phương tiện, chẳng xứng hợp lý nên cũng là ác.

d. Cái thiện của Viên giáo Bồ Tát: Lý viên diệu là điều thiện cùng tột, nhưng lý này có hai nghĩa:

* Viên lý thuận với Thật Tướng là thiện, trái nghịch Thật Tướng là ác.

* Thấu đạt viên lý này là thiện, chấp trước viên lý lại thành ác. Chấp vào viên lý còn là ác, huống hồ là chấp vào các pháp khác.

Quan điểm ‘thấu đạt viên lý là thiện, chấp trước viên lý là ác’ là giáo thuyết độc đáo do tông Thiên Thai phát huy, nghĩa lý này thật tinh diệu.

‘Quốc độ thô diệu’: Chữ ‘thô diệu’ như phần trên đã giảng. ‘Thô’ là chẳng tinh, ‘diệu’ là thắng diệu. Sư Nghĩa Tịch bảo: ‘Trong Tịnh Ðộ có thô, diệu sai khác. Thô chính là biến hóa, diệu chính là thọ dụng’ nghĩa là: Trong Tịnh Ðộ, có các sự thô hay diệu sai khác. Thô là có suy, có biến, còn ‘diệu’ là cõi Thật Báo tự thọ dụng hay tha thọ dụng.

‘Thiên nhân thiện, ác’ là nhân, ‘quốc độ thô, diệu’ là quả. Người lành thời cõi nước diệu, người ác ắt cõi nước hèn kém. Vì vậy, sách Hội Sớ bảo: ‘Quốc độ chính là hình bóng của chúng sanh. Hình dài thì bóng nó dài, hình ngắn thì cõi đất ngắn ngủi’. Ý nói: Quốc độ thô hay diệu giống như cái bóng. Thân dài hay ngắn là hình; cái bóng do hình quyết định, bóng ắt phụ thuộc hình. Vì vậy, Tịnh Ảnh Sớ ghi: ‘Câu ‘Thiên nhân thiện ác’ phiếm chỉ cái nhân của các cõi nước. ‘Quốc độ thô diệu’ là chỉ chung cái quả hết thảy các cõi’.

‘Tư duy đến rốt ráo, ngài liền nhất tâm chọn lựa lấy điều mình mong muốn kết thành đại nguyện’: Với mỗi một cái nhân thiện ác, cái quả thô, diệu của các cõi Phật, Pháp Tạng Bồ Tát đều suy nghĩ, phân biệt tỉ mỉ đến cùng cực, thấu đạt rốt ráo. ‘Rốt ráo’ chính là Chơn Thật Tế được nói trong kinh, cũng là một pháp cú, thanh tịnh cú, chơn thật trí huệ vô vi Pháp Thân. Ngài bèn chuyên nhất tự tâm chọn lựa lấy ý nguyện độ sanh, khai hóa, hiển thị, nêu lên các thứ y báo, chánh báo trang nghiêm, pháp môn Tịnh Ðộ chẳng thể nghĩ bàn, kết thành đại nguyện để ban cho chúng sanh cái lợi chơn thật.

‘Dốc một lòng’ chính là nhất tâm. Vì thế, phẩm này mang tên Chí Tâm Tinh Tấn. Nhất tâm tức là Chơn Như như sách Chỉ Quán nói: ‘Nhất tâm đủ mười pháp giới’. Sách Thám Huyền Ký cũng nói: ‘Nhất tâm là tâm không có một niệm khác’. Sách Giáo Hạnh Tín Chứng Văn Loại còn viết: ‘Một niệm là tín tâm không có hai tâm nên bảo là một niệm. Ðấy gọi là nhất tâm. Nhất tâm là cái nhân chơn thật của báo độ thanh tịnh vậy’. Câu trên giống hệt như câu ‘nhất tâm kết thành đại nguyện’ trong kinh này vậy, chỉ rõ: nhất tâm chính là cái nhân chơn thật của báo độ.

Với câu ‘siêng gắng cầu lấy’, hai bản Hán dịch và Ngô dịch đều chép là ‘dũng mãnh tinh tấn, vất vả tìm tòi’ nên chữ ‘siêng’ ở đây là tinh tấn, ‘gắng’ có nghĩa là gắng gỏi chăm chỉ. ‘Cầu’ là mong cầu, ‘lấy’ là giữ lấy.

Bản Hán dịch ghi câu ‘Cung kính, thận trọng gìn giữ’ như sau: ‘Con sẽ phụng trì, sẽ trụ Trung Ðạo’. ‘Cung’ là cung kính, ‘thận’ là cẩn thận, chí thành, tịch tịnh. Câu ‘sẽ trụ Trung Ðạo’ chính là ý nghĩa thật của hai chữ ‘cung’ và ‘thận’. An trụ Trung Ðạo là cung kính, chí thành một cách chơn thật. Chữ ‘bảo’ trong ‘bảo trì’ (gìn giữ, hành trì) cùng nghĩa chữ ‘bảo’ trong ‘bảo nhậm’. Nhà Thiền nói: ‘Tâm tâm chẳng khác là bảo’. ‘Trì’ là hành trì, cũng có nghĩa là giữ lấy. Như vậy, chữ ‘bảo trì’ tương đương chữ ‘phụng trì’ của bản Hán dịch. Do đó, ‘cung thận bảo trì’ (cung kính, thận trọng gìn giữ, hành trì) có nghĩa là tự nhiên cung kính, nghiêm túc, thung dung Trung Ðạo, tâm tâm chẳng khác, tùy ý tự chấp trì vậy.

Câu ‘Tu tập công đức trọn đủ năm kiếp’ được bản Hán dịch ghi như sau: ‘Tư duy trọn đủ năm kiếp, nhiếp thủ hạnh thanh tịnh trang nghiêm Phật quốc’. Bản Ðường dịch ghi: ‘Với tất cả các sự nghiêm tịnh của hai trăm mười ức cõi Phật ấy đều nhiếp thọ cả. Ðã nhiếp thọ xong, tư duy tu tập trọn cả năm kiếp’. Bản Tống dịch chép: ‘Ở nơi thanh tịnh, ngồi một mình tư duy, tu tập công đức trang nghiêm cõi Phật, phát đại thệ nguyện trong suốt cả năm kiếp’. Với câu này, cổ đức có nhiều thuyết khác nhau:

a. Các vị Tịnh Ảnh, Cảnh Hưng cùng cho rằng năm kiếp là thời gian tu hành sau khi phát nguyện. Sách Tịnh Ảnh Sớ viết: ‘Nương nguyện tu hành’‘vì vậy, ở ngay nơi đức Phật ấy, ngài Pháp Tạng ngay trong một thân tu hành năm kiếp’. Sách Lược Tiên cũng ghi: ‘Ðấy là thời gian tu hành. Trong thời gian năm kiếp, tư duy, siêng năng tu tập, tu thành tựu viên mãn cái hạnh mình đã nguyện. Ðã phát nguyện xong chẳng thể không có hạnh’. Các ý kiến trên đều cho rằng năm kiếp là thời gian tu hành sau khi phát nguyện.

b. Năm kiếp chính là thời gian phát nguyện. Sách Hợp Tán bảo: ‘Năm kiếp là thời gian phát nguyện, tư duy’. Ngài Vọng Tây cũng đồng quan điểm này. Sách Hội Sớ viết: ‘Phàm Bồ Tát kiến lập Tịnh Ðộ thì cũng giống như thợ giỏi xây dựng đại thành, trước hết phải suy nghĩ, hoạch định họa đồ.... Năm kiếp tư duy như vẽ đồ án’. Quan điểm này cho rằng năm kiếp tư duy giống như trước khi thi công, phải thực hiện đồ án. Sách Hợp Tán đồng quan điểm với sách Hội Sớ, cũng cho rằng năm kiếp là thời gian phát nguyện, chẳng phải là thời gian tu hành sau khi đã phát nguyện. Sách Bình Giải cũng đồng nhận định. Các vị ấy đều lấy bản Ngụy dịch làm chứng cứ để lập luận.

c. Riêng ngài Gia Tường lại bảo: ‘Trong năm kiếp tu hành phát nguyện’. Thuyết này nêu cả tu hành lẫn phát nguyện nhưng lấy phát nguyện làm chỗ quy thú, rất phù hợp với ý bản Tống dịch. Do bản Tống dịch trước tiên viết: ‘Tư duy tu tập’ rồi viết tiếp: ‘phát đại thệ nguyện suốt trong năm kiếp’ ta thấy: trong năm kiếp ngài dùng hạnh thanh tịnh tu tập đại nguyện giữ lấy cõi Phật thanh tịnh. Trọn cả năm kiếp đại nguyện mới thành. Quan điểm này rất phù hợp với ý hội bản: phải là sau khi ‘siêng gắng tìm lấy, cung kính, thận trọng gìn giữ, hành trì, tu tập công đức trọn đủ năm kiếp’ thì ‘quốc độ được ngài nhiếp thủ mới siêu việt các cõi ấy’. Kinh chép như vậy thật tương hợp với thuyết của ngài Gia Tường. Vì vậy, ‘năm kiếp tu hành’ là thời gian tu hành và phát nguyện.

Chữ ‘câu chi’ trong đoạn kinh trên có nghĩa là một ngàn vạn. Trong năm kiếp, tỳ kheo Pháp Tạng đối với các thứ công đức kỳ diệu, trang nghiêm thù thắng của hai trăm mười ức cõi Phật, đối với mỗi một thứ thiện, ác, thô, diệu sai biệt đều ‘hiểu rõ, thông đạt như là một cõi Phật’. Qua một thời gian dài lâu suy nghĩ, chọn lựa, tu tập, nhiếp thủ nên mới có thể kết thành đại nguyện ngõ hầu ‘quốc độ được ngài nhiếp thọ vượt trội các cõi kia’. Chữ ‘kia’ chỉ hai trăm mười ức cõi Phật. Nay cõi Phật được nhiếp thủ bởi đại nguyện của Pháp Tạng Bồ Tát không những thật sự siêu việt hai trăm mười ức cõi Phật mà còn siêu việt mười phương cõi Phật, cực tả sự thù thắng độc diệu của cõi Cực Lạc.

  Chánh kinh: Ðã nhiếp thọ xong, lại đến chỗ Thế Tự Tại Vương Như Lai, dập đầu lễ chân Phật, nhiễu Phật ba vòng, đứng chắp tay, bạch rằng:

- Bạch Thế Tôn, con đã thành tựu hạnh thanh tịnh trang nghiêm cõi Phật.

Phật khen:

- Lành thay! Nay chính là đúng lúc, ông nên thuật đủ khiến cho đại chúng hoan hỷ, cũng khiến cho đại chúng nghe pháp ấy xong được đại thiện lợi, có thể tu tập, nhiếp thọ cõi Phật, đầy đủ vô lượng đại nguyện.

  Giải: Câu ‘đã nhiếp thọ xong’ là câu để nối kết đoạn kinh trước với đoạn kinh này. Khi đó, Pháp Tạng Bồ Tát lại đến chỗ đức Thế Gian Tự Tại Vương Phật. ‘Dập đầu’ là cúi đầu sát đất. ‘Lễ chân’ là dùng đầu mình áp sát chân Phật. Kế đó, nhiễu Phật cũng là cách kính lễ. ‘Ba vòng’ là nhiễu quanh Phật ba vòng, biểu thị ý trân trọng hành lễ. Nhiễu xong liền chắp tay đứng yên trước Phật, hướng về đức Phật bạch rằng: ‘Con đã thành tựu hạnh thanh tịnh trang nghiêm cõi Phật’. Phật khen ‘Lành thay’ ý nói: hạnh của tỳ kheo Pháp Tạng thật vừa ý thánh tâm, thông suốt bổn hoài của Phật, ứng trọn các căn cơ nên được Phật khen ngợi, chấp thuận. ‘Lành thay!’ là tiếng biểu lộ sự vui mừng rất sâu của Phật.

‘Nay chính là đúng lúc’: Do thời cơ chín muồi để hội ba thừa quy về một thừa, hành giả cả ba thừa cùng được hưởng xe trâu trắng lớn, cùng nhập một Như Lai thừa để khai tri kiến Phật, chỉ bày tri kiến Phật cho các chúng sanh nên kinh Pháp Hoa nói: ‘Nay chính là đúng lúc’. Trong kinh này cũng thế, muốn cho thập phương cửu giới chúng sanh cùng nhập Nhất Thừa đại thệ nguyện hải của Phật Di Ðà, hết thảy hàm linh đều được độ thoát nên Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai bảo: ‘Nay chính là đúng lúc, ông nên thuật đủ khiến đại chúng hoan hỷ, cũng khiến cho đại chúng nghe pháp ấy xong được đại thiện lợi’. Như Lai có ý khuyên Pháp Tạng tuyên thuyết để toàn bộ đại chúng được lợi ích. Hai chữ ‘đại chúng’ bao gồm đại chúng hiện diện khi ấy lẫn hết thảy phàm phu, Nhị Thừa và Bồ Tát trong đời tương lai (bọn phàm phu chúng ta ngày nay cũng nằm trong số này). Nói ra sẽ khiến cho khắp đại chúng được nghe cùng phát nguyện vãng sanh, mau vượt khỏi biển khổ sanh tử nên ‘khiến cho đại chúng hoan hỷ’; cũng khiến cho đại chúng nghe pháp được lợi ích, khắp phát cái nguyện của Di Ðà, học hạnh của Pháp Tạng, nhiếp thủ cõi Phật, viên mãn đại nguyện.

Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Pháp Tạng tự nói nguyện của mình xong khiến các Bồ Tát học theo ngài cùng phát nguyện’. Sách Hội Sớ cũng nói: ‘Bồ Tát nghe xong tự phát tâm dũng mãnh. Ổng là trượng phu, ta cũng vậy, ổng đã phát nguyện nhiệm mầu, ta há chẳng bằng ổng sao? Vì vậy, nguyện của Pháp Tạng làm duyên viên mãn đại nguyện [của đại chúng].

‘Ðầy đủ vô lượng đại nguyện’ là viên mãn hết thảy chí nguyện. Sách Vãng Sanh Luận Chú viết: ‘Viên mãn một nguyện vãng sanh Tịnh Ðộ chính là viên mãn hết thảy các chí nguyện, nên bảo là: đầy đủ vô lượng đại nguyện’. Ðàm Loan đại sư (tác giả sách Vãng Sanh Luận Chú) quả thật đã giãi bày trọn vẹn tâm tủy của chư Phật. Cái đại nguyện do Pháp Tạng Bồ Tát trong cả năm kiếp siêng gắng tìm cầu, chọn lọc thật ra chỉ là một nguyện nhằm làm cho chúng sanh chơn thật phát khởi ý nguyện cầu vãng sanh Tịnh Ðộ. Vì vậy, bọn phàm phu đời mạt chúng ta chỉ cần viên mãn nguyện này ắt liền xứng hợp Di Ðà đại nguyện, liền nhập Nhất Thừa nguyện hải, liền cùng một thể với Di Ðà đại nguyện nên kinh mới bảo: ‘Ðầy đủ vô lượng đại nguyện’. Những gì là phương tiện, những gì là đường thẳng chóng? Chính là từ quả khởi tu thẳng đến cứu cánh. Pháp môn Tịnh Ðộ thật chẳng thể nghĩ bàn.

Xem mục lục