Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (8)


Xem mục lục

 

BÀI THỨ BẢY
NÓI VỀ CHỦNG TÁNH VÀ HUÂN TẬP
(CÓ MƯỜI ĐOẠN)

I. NÓI VỀ HAI MÓN TÁNH

1-     Sẵn có.

2-     Mới sanh.

  Bên sách Nho nói “Tánh”, tức bên Duy thức gọi là”Chủng tử” (hạt giống). Chủng tử có hai thứ: Sẵn có và mới sanh. Trong kinh Phật nói: “Tất cả loài hữu tình, từ vô thỉ đến giờ, có rất nhiều giới”. Chữ “giới” tức là biệt danh của chủng tử (hạt giống). Đây là loại “Bản tánh trụ  chủng” (chủng tánh sẵn có) cũng gọi là “Bản hữu chủng tử” (chủng tử sẵn có).

  Trong Thành Duy Thức Luận nói: “Cũng có thứ chủngtử, từ hồi nào đến giờ, do huân tập mà có, lại thường thường hiện khởi. Đức Thế  Tôn căn cứ theo loại chủng tử này nên nói: “Tâm của loài hữu tình, là chỗ huân  tập của các pháp nhiễm và tịnh”. Vì nó có thể chứa nhóm vô lượng chủng tử mới, nên gọi là “Tập sở thành  chủng”,(chủng tử do huân tập mà thành) cũng gọi là “Thỉ khởi chủng tử” (giống mới sinh).

  Hai loại chủng từ này, mỗi thứ đều có ba tánh: Lành dữ và không lành dữ. Thứ hoàn toàn lành là thanh tịnh, không bị tạp nhiễm gọi là “Vô lậu chủng tử”. Thứ lành hoặc dữ và có tạp nhiễm, thì gọi là “Hữu lậu chủng tử”.

  Chủng tử (hạt giống)

1-      Giống sẵn có

a)      Hữu lậu

b)      Vô lậu

2-      Giống mới sanh

a)      Hữu lậu

b)      Vô lậu

II. NĂM MÓN TÁNH KHÁC NHAU

  Đức Khổng Tử nói: “Tánh tương cận”, (tánh của người gần nhau) tức bên Duy Thức nói “Chủng tánh sẵn có” (bản tánh trụ chủng). Đức Khổng tử nói: “Tập tương viễn” vì tập luyện nên xa nhau tức bên Duy Thức nói: “ Chủng tánh mới sinh” (tập sở thành chủng).

  Thầy Mạnh nói: “Người mới sanh tánh lành”. Nói như thế là chỉ cho giống lành sẵn có thì phải; còn những giống ác sẵn có thì không đúng.

  Thầy Tuân nói: “Người mới sanh tánh ác”. Nói như vậy thì chỉ cho giống ác mới sinh là phải, còn những người giống lành mới sanh thì không đúng, vì thầy Mạnh và thầy Tuân nói đến “tánh”,nhưng đều không biết cái nghĩa “chủng tử” (hạt giống).

  Duy có ông Cao Tử nói: “Tánh người không phải thiện và ác”. Oâng Dương Tử lại nói: “Tánh người lành và dữ lẫn lộn”. Hai ông này nói “tánh”, thì gần với bên Duy thức nói nghĩa “chủng tử thông cả 3 tánh”. (Thiện, ác và vô ký).

  Phật căn cứ theo sự có hạt giống “vô lậu” hay không, mà phân chia tất cả chúng sanh ra làm năm loại chủng tánh:

1-     Vô chủng tánh (không có giống vô lậu): Vì những chúng sanh này, chỉ hay phát tâm làm những việc phát tâm làm những việc phước thiện ở thế gian, như bắc cầu, đắp đường v.v… để mong được cầu phước báu cõi Người và cõi Trời, chỉ tạo phước nghiệp về hữu lậu, không có chủng tử vô lậu, nên gọi là “Vô chủng tánh”.

2-     Thinh văn chủng tánh: Vì những chúng sanh này, chỉ nghe theo lý Tứ Đế của Phật mà ngộ đạo, nên gọi là “Thinh văn tánh”.

3-     Độc giác chủng tánh: Vì những chúng sanh này, chỉ tự mình liễu ngộ 12  duyên sinh, mà được thành đạo, nên gọi là “Độc giác tánh”. –Thinh văn và Độc giác, tuy đều có phát hiện hạt giống vô lậu, nhưng vì hai hạng này chỉ đoạn trừ ngã chấp, chưa đoạn được pháp chấp, chưa đoạn được pháp chấp, nên gọi chung là “Nhị thừa chủng tánh”.

4-     Đại thừa chủng tánh: Vì những người này phát tâm Phật, rộng tu lục độ, đoạn trừ  ngã chấp và pháp chấp, quyết định thành Phật, nên gọi là “Phật chủng tánh”.

5-     Bất định chủng tánh: Vì những chúng sanh này, sẵn có hạt giống vô lậu và hữu lậu, nếu gặp Đại thừa giáo hóa thì thành Phật, còn gặp Nhị thừa giáo hóa thì thành Thinh văn và Duyên giác, vì tánh bất định, nên gọi là “Bất định chủng tánh”.

  Năm chủng tánh

Vô chủng tánh (không có giống vô lậu) tức là Nhơn và Thiên.

Thinh văn chủng tánh.

Duyên giác chủng tánh.

Đại thừa chủng tánh (Bồ tát).

Bất định chủng tánh (không nhứt định Đại thừa hay tiểu thừa).

  Món đầu gọi là “Vô chủng tánh”, nghĩa là không có chủng tánh vô lậu. Bốn món sau gọi là “Hữu chủng tánh” nghĩa là có chủng tánh vô lậu.

  Đức Khổng Tử nói: “Duy có bậc thượng trí và kẻ hạ ngu, thì tánh không đổi dời”. Trong kinh Phật nói: “Không chủng tánh” tức là đức Khổng Tử chỉ cho “kẻ hạ ngu, tánh không đổi dời”. Trong kinh nói “Thinh văn, Duyên giác và Phật chủng tánh”, tức là đức Khổng Tử nói “bậc Thượng trí, tánh không dời đổi”.

  Cũng có thể nói: Những hạng “Vô chủng tánh” là vì họ mê chấp  ở nơi ngã và pháp vậy. Hàng Thinh văn và Duyên giác tuy phá trừ được “ngã chấp” nhưng còn “pháp chấp” , nên cũng còn thuộc về hạng hạ ngu không dời đổi. Duy có bậc Đại thừa Bồ tát đã phá trừ ngã chấp và pháp chấp, đặng “Nhất thiết chủng trí”, nên gọi là “bậc Trí không dời đổi”.

  Đức Khổng Tử nói: “Tánh tương cận, tập tương viễn” (Tánh của mỗi người thì gần nhau nhưng vì sự huân tập mà xa nhau) đó là chỉ cho những người gần gũi Đại thừa thì huân tập theo Đại thừa, còn gần gủi Tiểu thừa thì huân tập theo Tiểu thừa, tánh không nhất định, nên gọi là “Bất định chủng tánh”.

III. CHỦNG TỬ HỮU LẬU VÀ VÔ LẬU

  Chủng tử tuy chứa trong Thức thứ Tám, nhưng không phải có hình thể riêng khác, nó chính là tướng phần của Thức thứ Tám. Tánh chất của chủng tử hữu lậu thì đồng với tánh chất của Thức thứ Tám là vô ký (không nhất định thiện hay ác). Nếu căn cứ theo cái nhân đã tạo trong quá khứ và cái quả sẽ sanh trong vị lai của chủng tử hữu lậu mà luận thì thông cả ba tánh là: Thiện, ác và vô ký. Còn tánh chất của chủng tử vô lậu thì thuần thiện không thuộc về ác và vô ký, cho nên không đồng tánh chất với Bản Thức (Thức thứ Tám). Trong Thành Duy Thức Luận nói: “Các chủng tử hữu lậu cùng với Bản thể của Thức thứ Tám không khác, vì đều thuộc về tánh vô ký. Nhưng nhân  và quả của chủng tử đều có thiện, ác và vô ký. Còn các chủng tử vô lậu thì không phải thuộc về tánh vô ký như Thức Dị thục  (Thức thứ Tám), vì nhơn và quả của chủng tử vô lậu là thuộc về tánh thiện, nên chỉ gọi là “Thiện”.
 
 

   Tánh chất của chủng tử:

         Hữu lậu chủng:  - Nhân và quả của hữu lậu chủng tử, thì thông cả 3 tánh: Thiện, ác và vô ký.

                                    - Khi chủng tử ở trong Tạng thức, thì đồng tánh vô ký với Dị thục thức.

         Vô lậu chủng:    - Tánh thuần thiện.

                                     - Không đồng tánh với Dị thục thức.

  Đoạn này có thể làm tỷ dụ: Như nước chứa trong biển , cùng với biển không khác; cũng như chủng tử chứa trong Tạng thức, cùng với Tạng thức không khác. Còn nước ở trăm sông (là cái nhân để chảy về biển), thì tánh chất của nó mặn, lạt, trong, đục không đồng; dụ như cái nhân của chủng tử có ba tánh: Thiện, ác và vô ký. Đến khi nước  trăm sông chảy về biển, thì đồng tánh với nước biển. Dụ như các pháp khi huân vào Dị thục thức, thì đồng tánh vô ký như Dị thục thức.

  Nếu nước biển chảy ra trăm sông, thì thành tánh nước sông, có trong, đục, mặn, lạt không đồng, là dụ cho khi chủng tử khởi ra quả (hiện hành) cũng có ba tánh là: Thiện, ác và vô ký.

  Duy có các loại châu ngọc quý báu chứa trong biển, thì trước sau đều quý, không phải tánh chất tạp nhiễm của biển có thể so sánh được. Dụ như các chủng tử vô lậu chứa trong Tạng thức, nhân và quả đều thuần thiện, không phải đồng tánh chất tạp nhiễm với Tạng thức.

   Tạng thức (biển)

1- Hữu lậu chủng (dụ nước biển)

a) Các pháp huân vào Tạng thức (sông chảy vào biển).

b) Chủng tử khởi ra hiện hành (biển chảy ra sông).

Đồng có ba tánh: Thiện, ác và vô ký (đều hữu lậu)

2- Vô lậu chủng (dụ châu ngọc)

Tánh thuần thiện vô lậu, khác với Tạng thức (như châu ngọc, không đồng tánh tạp nhiễm với biển).

IV. TÁNH NGƯỜI CHẲNG PHẢI VỐN LÀNH

  Thế tục truyền nhau học quyển Tam tự kinh, câu khởi đầu nói rằng: “Người mới sinh, tánh vốn lành” (nhơn chi sơ, tánh bổn thiện) tức là y theo thuyết Thầy Mạnh nói “người tánh lành”.

  Khi đã gọi là “tánh”, thì quyết định không dời đổi. Nếu quả thật “tánh người vốn lành”, tại sao trong thế gian còn có người ác? Lại nữa, “tánh người đã vốn lành”, thì không cần phải giáo hóa, tại sao đức Khổng, thầy Mạnh và các vị Nho gia đời sau còn chép kinh sách rất nhiều để lại dạy đời làm gì? Và tánh của người nếu đều là Thiện, thì trong Tam tự  kinh nên nói rằng “tánh đồng nhau” mà không được nói “tánh gần nhau” (tánh tương cận). Lại nữa, nếy “tánh người quyết định là lành”, thì nó không thay đổi, cũng như ngọc Kim cương không hoại; tại sao trong Tam tự kinh nói: “Vì tập luyện mà nó xa nhau” (tập tương viễn)?

V. TRONG TAM TỰ KINH NÓI “VÌ TẬP LUYỆN NÊN XA NHAU” (TẬP TƯƠNG VIỄN) TỨC LÀ BÊN DUY THỨC NÓI NGHĨA CHỮ “HUÂN TẬP”

  Trong Tam tự kinh nói: “Tánh người gần nhau, vì tập luyện nên xa nhau” (tánh tương cận, tập tương viễn). Đó là theo thuyết của đức Khổng Tử, so với lý Duy Thức không trái. Nhà Duy thức nói: “Tánh của Thức A lại da là vô phú vô ký”. Có thể nói: “Đó là nghĩa “tương cận”  (gần nhau) như bên sách Tam tự kinh. Thức A lại da này lại hàm chứa tất cả hạt giống (chủng tử) lành dữ; rồi từ hạt giống này lại phát khởi hiện hành (phát hiện ra hành tướng)  sanh ra tất cả các pháp. Các pháp hiện hành trở lại huân tập vào Tạng thức, thành ra chủng tử; rồi từ chủng tử đó, lại khởi hiện hành nữa v.v… Bởi cùng nhau huân tập như vậy, nên từ “tánh gần nhau” (tánh tương cận) rồi lần hồi “xa nhau” (tập tương viễn), đó cũng là lẽ tất nhiên vậy.

VI. HUÂN SANH, HUÂN TRƯỞNG

Nay nói mộ tỷ dụ, để chỉ rõ hình trạng của sự huân tập. Như hiện nay chúng ta nghe Phật pháp: từ Nhĩ thức nghe tiếng nói pháp, rồi huân tập vào Tạng thức. Nếu trong Tạng thức từ hồi nào đến giờ không có chủng tử (hạt giống) Phật pháp, nay bắt đầu từ đây, dần dần huân vào mới thành hạt giống vô lậu (phật pháp) thì gọi là “huân sanh” (huân tập mới sanh). Còn trong Tạng thức nếu đã sẵn có hạt giống Phật pháp, hôm nay do nghe Phật pháp huân thêm vào Tạng thức, làm cho trưởng thành hạt giống vô lậu, thì gọi là “huân trưởng” (huân tập trưởng thành). Ngoài ra như nghe những tiếng dâm ô v.v… huân tập vào Tạng thức thành hạt giống hữu lậu vậy.

Huân tập

Huân sanh (mới sanh): mới nghe Phật pháp.

Huân trưởng (trưởng thành): có thể giảng Phật pháp được.

VII. CHỦNG TỬ KHỞI HIỆN HÀNH CÓ CHẬM VÀ MAU

  Chủng tử khi mới huân sanh, lực lượng còn yếu, như hạt đậu chưa già, dù gặp trợ duyên cũng không thể phát khởi ra hiện hành được. Còn chủng tử huân tập đã lâu, được trưởng thành, thì lực lượng nó rất mạnh, cũng như hạt đậu đã già, vừa gặp trợ duyên thì liền phát khởi ra hiện hành.

  Trong thế gian những người mới nghe Phật pháp, không thể  giảng liền lại được, vì trong Tạng thức của họ từ hồi nào đến giờ không có hạt giống Phật pháp, hôm nay  mới vừa huân sanh, nên không thể  khởi liền ra hiện hành (quả) được.

  Còn người nghe Phật pháp được đôi ba kỳ, có thể nói lại được, thì biết người này, trước kia đã có huân sanh hạt giống vô lậu (Phật pháp), hôm nay lại huân trưởng, cho nên mới phát khởira hiện hành được.

  Nếu như người mới vừa nghe Phật pháp qua một lần, mà liền giảng lại được, như đức Lục Tổ Huệ Năng nghe tụng Kinh Kim Cang, liền được đại ngộ v v…  thì biết những bậc này, đã sẵn có hạt giống vô lậu rất mạnh, cho nên khi gặp thuận duyên, một phen huân tập vào, liền phát khởi ra hiện hành.

VIII. NIỆM PHẬT HUÂN THÀNH HẠT GIỐNG PHẬT (VÔ LẬU)

  Do nghĩa huân tập này, nên cũng có thể nói rõ lợi ích sự niệm Phật, không luận người nào, hoặc sẵn có hạt giống vô lậu hay không có, miễn bảo họ niệm một câu “A di da Phật”, thì cái niệm này liền huân vào Tạng thức. Nếu người nào trong Tạng thức không có hạt giống vô lậu, thì nó huân vào làm cho sanh ra, còn người nào trong Tạng thức đã có hạt giống vô lậu, thì nó huân vào làm cho trưởng thành. Huân tập như vậy, từ một niệm cho đến ngàn muôn niệm, từ một ngày cho đến ngàn muôn ngày, lần lần huân tập hạt giống vô lậu mới phát sinh hay trưởng thành.

  Khi hạt giống vô lậu chứa đầy trong Tạng thức rồi, thì không còn chỗ nào dung chứa giống hữu lậu nữa, cố nhiên hạt giống hữu lậu phải tự tiêu diệt, lúc bấy giờ chỉ thuần một thứ vô lậu. Cũng như đất ruộng khi cấy mạ lúa đầy hết rồi, thì cỏ không thể phát sanh được. Do nghĩa này nên người đời thường nói: “Dùng niệm Phật để trừ vọng niệm”.Nói như vậy là không rõ nghĩa “niệm Phật”. Vì phương pháp “niệm Phật” thường thời để khởi “chánh niệm”, làm cho vọng niệm không thể xen vào.

IX. CHỦNG TỬ VÀ HIỆN HÀNH CÙNG NHAU LÀM NHÂN, QUẢ

  Chủng tử và hiện hành thay đổi nhau làm nhân, quả. Như trong Tạng thức của chúng ta đây đã sẵn chứa chủng tử Phật pháp (nhân), cho nên nay mới khởi hiện hành là nói pháp cho chúng sanh nghe (quả). Như thế gọi là “Chủng tử sanh hiện hành”.

  Lại nữa, chúng sanh hiện nghe pháp là “nhân”, huân vào Tạng thức thành hạt giống Phật là “quả”. Nên gọi là: “Hiện hành huân chủng tử”. Cho biết: Chủng tử và hiện hnàh có thể cùng nhau làm nhân làm quả.

    Nhân quả đối nhau

1.  Chủng tử sanh hiện hành:

  Nhân: Chủng tử

  Quả: Hiện hành

2.  Hiện hành huân chủng tử:

  Nhân : Hiện hành

  Quả: Chủng tử

X. NHÂN VÀ QUẢ ĐỒNG THỜI VÀ KHÁC THỜI

  Phàm chủng tử hay hiện hành tự nó sanh hay trợ giúp nhau sanh, đều gọi là “nhân, quả” cả. “Nhân” với “Quả” có thể đồng thời trực tiếp sanh hay khác thời gián tiếp sanh. Như  “chủng tử sanh hiện hành” và “hiện hành huân chủng tử”, thì chủng tử với hiện hành quyết phải đồng thời và tương ứng nên gọi là” đồng thời nhân quả”. Trong Thành Duy Thức đã nói: “Chủng tử sanh hiện hành, hiện hành huân chủng tử, ba pháp (chủng, hiện, hành) đắp đổi sanh nhau, như cái cân giá hai đầu, bên này cao thì đồng thời bên kia thấp, nên gọi là “nhân quả đồng thời”.

  Khi pháp “hiện hành” này với pháp hiện hành kia, giúp nhau sanh khởi, thì gọi là “hiện sanh hiện”; cũng là “đồng thời nhân quả”.

  Còn khi chủng tử với chủng tử, đồng loại sanh nhau, thì gọi là “chủng sanh chủng”. Chủng tử trước diệt, chủng tử sau  mới sanh, tít tắc tương tục. Như người đi đường, phải chân trước bước  đi rồi, chân sau mới bước đến, không thể đồng thời được, nên gọi là “dị thời nhân quả”.

    Nhân và quả
   1.  Nhân quả đồng thời và trực tiếp
       Chủng sanh Hiện

       Hiện huân Chủng

       Hiện sanh hiện
2. Nhân quả dị thời và gián tiếp

       Chủng sanh chủng

Xem mục lục