Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (30)


Xem mục lục

Không phải riêng gì Ðạo Phật, tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới, theo với thời gian và sự phát-triển, đều có chia ra nhiều tôn phái. Sự phân phái ấy là một lẽ đương nhiên phải có để cho các căn cơ và hòan cảnh khác nhau đều có thể thích hợp được. Nếu không, thì đạo không thể phát-triển được về bề sâu cũng như bề rộng. Hơn một tôn giáo nào cả, Ðạo Phật không có những giáo điều thần khải, không có một tinh thần rắn chắc, gò bó trong những hình thức hẹp hòi, câu nệ, mà trái lại, rất phóng khóang, tự do, dễ khoan hòa, dung hiệp, nên Ðạo Phật đi đến đâu cũng có thể phát-triển đúng theo căn cơ và hòan cảnh riêng biệt ở địa phương ấy. Do đó, mà Ðạo Phật có rất nhiều màu sắc riêng biệt khi lan tràn trên các nước. 

Riêng ở Trung Hoa, Ðạo Phật đã có chia mười tôn phái. Trong mỗi tôn phái đều có đặc điểm riêng, nhưng không bao giờ vượt ra ngòai giáo pháp của Phật cả. Những tôn phái này cũng như những con đường khác nhau,có đường thẳng đường cong,đường cao đường thấp, đường rộủng đường hẹp, nhưng con đường nào cũng đưa đến một mục đích chung cả. Hành giả tùy theo trình độ, trí thức, khả năng, sở thích riêng mà lựa chọn con đường nào thích hợp với mình nhất để tu tập. Có như thế thì sự tu hành mới chóng có kết quả. 

Mười tôn phái ở Trung Hoa là: Luật tôn, Tịnh độ tôn, Thiền tôn, Pháp tướng tôn, Mật tôn, Thiên thai tôn, Hoa nghiêm tôn, Tam luận tôn, Câu xá tôn và Thành thật tôn. 

Trong 10 này, Câu xá tôn và Thành thật tôn chủ trương về Tiểu Thừa; Luật tôn và Thiền tôn thông cả Ðại và Tiểu Thừa, còn 6 tôn kia thuộc về Ðại Thừa. 

Nghĩa lý của các tôn rất mầu nhiệm kinh điển cũng rất nhiều, muốn hiểu cho thấu đáo, cần phải chuyên môn nghiên cứu, công phu trong nhiều năm.trong phạm vi của khóa Phật học phổ thông này, chúng ta không thể đi sâu vào mỗi tôn được. Ơí đây, chúng ta chỉ nên biết qua đại khái về giáo lý và làm quen với danh từ các tôn ấy, để có chổ nhập môn mà thôi. Sau này, khi học cao hơn,chúng ta sẽ đi sâu vào từng tôn phái một và sẽ tùy theo căn cơ sở thích của mình mà lựa một trong những tôn ấy để tu hành. 

I.- Luật Tông 

I.- Duyên Khởi Lập Tông  

Tôn này dùng luật làm chỗ căn cứ nên gọi là Lụât tôn. Ðức Phật khi còn tại thế, tùy căn cơ, tùy hòan cảnh mà chế ra nhiều lọai giới luật để răn dạy đệ tử, hóa độ chúng sinh. Sau khi Ngài nhập Niết bàn, các đệ tử của Ngài,như Ngài Ưu-Ba-Li là vị tinh thông về giới luật đứng trên pháp tọa trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ nhất, đã tụng đọc lại những giới luận mà Ðức Phật đã chế ra. Lần kết tập này chưa biên chép thành kinh điển, nên Ngài Ưu-Ba-Li phải đọc đi đọc lại đến 80 lần, đến nỗi mỗi người trong hội đều thuộc lòng. Do đó, mới có tên là"Bát thập tụng luận ". Về sau,tuần tự theo thời gian, nguyên thủy Phật giáo lần hồi chia ra làm nhiều nhánh, hay bộ phái. Mỗi bộ phái đều theo một bộ lụât riêng. Trong số các bộ luật này, bộ được nói đến và áp dụng nhiều nhất là các bộ: Thập tụng, Tứ phần, Tăng kỳ, Ngũ phần. 

Những bộ luật này được truyền sang Trung Hoa và được phiên dịch ra Hán văn. Ðến đời Ðường, Ngài Trí Thủ luật sư chú giải các bộ ấy, và đệ tử của Ngài là Ðạo Tuyên luật sư, nhận thấy trong các bộ ấy,bộ luật Tứ phầìn làthích hợp căn cơ người Trung Hoa, nên đã căn cứ vào luật này để lập ra Luật tôn.Ngài Ðạo Tuyên là người ở Chung nam sơn, nên người đời gọi tôn này là " Chung nam sơn" để phân biệt với các Luật tôn khác, như của các Ngài Pháp Lệ bên phái Hữu tướng bộ,hay Ngài Hoài Tố ở Ðông pháp.  

Trong các Tôn này, chỉ có Luật tôn của Ngài Chung nam sơn là thịnh hành hơn hết và được truyền bá cho đến bây giờ, vì nó trung hòa cả Ðại Thưà lẫn Tiểu Thừa. 

II.-Tôn Chỉ Và Ðặc Ðiểm Của Luật Tông 

Phàm một tổ chức, một công viếc gì đúng đắn cũng đều phải tuân theo những quy luật nhất định. Hơn tất cả, sự tu hành lại càng phải tuân theo những giới luật nghiêm minh. Như chúng ta đã biết trong phần giáo lý căn bản, nghiệp là động lực chính của vũ trụ nhân sinh.Nghiệp định đoạt tất cả đời sống chúng ta. Nghiệp có ba loại: Nghiệp của hành động, nghiệp của lời nói và nghiệp của ý nghĩ. Nếu những nghiệp ấy được thanh tịnh, không tạo ra các điều ác, thì ta không thọ quả báo sinh tử luân hồi. Không có quả báo sinh tử luân hồi thì tất nhiên là được giải thoát. Muốn các nghiệp được thanh tịnh thì ta phải giữ gìn giới luật, chính là một phương pháp tu hành trong nhiều phương pháp mà Phật đã chia ra. Phương pháp này rất thiết thực và rất hiệu nghiệm đối với Phật tủ chung ta: 

-Giữ giớ không sát nhơn hại vật, hiện người không làm người hung dữ, khỏi bị tù tội, về sau khỏi bị đọa trong ba đường dữ là địa ngục, ngạ quỷ,súc sinh, và khỏi bị người giết haị, đó là tu. 

-Giữ giới khong trộm cướp thì hiện thời làm người lương thiện khỏi bị giam cầm siềng xích, đời sau không mắc quả báo,bị người giựt của cướp nhà, đó là tu. 

-Giữ giới không tà dâm, hiện thời thành người tốt, gia đình mình và người không bị rầy rà, đánh đập, khổ sở vì ghen tương, đó là tu. 

-Giữ giới không nói dối, không nói láo xược, thèo lẽo, thêm bớt, đâm thọc, không nói hung ác và thô tục, thì không bị người khinh khi, lại được sự kính trọng, đó là tu. 

-Giữ giới kghông cờ bạc, hút xách, rượu chè, thì khỏi mất tiền, thiếu nợ, khỏi say sưa, làm điều tội lo0õi và khỏi bị người khinh bỉ, trí tuệ tăng trưởng, đo là tu. 

Nói một cách tổng quát, giữ một giới là ngăn ngừa được một điều tội lỗi,và thêm được một điều lành; giữ nhiều giớ là ngăn ngừa được nhiều điều tội lỗi và thêm được nhiều điều lành. Bởi thế, nên giữ giới luật làphương pháp tu không xa thực tế và rất cần thiết cho các Phật tử cầu đạo giải thoát. 

Nhờ giữ "giới luật" không làm các việc tội lỗi, nên tâm được "định"; do tâm định nên phát ra"trí huệ sáng suốt". Nhờ có trí huệ sáng suốt nên phá trừ được vô minh si ám, và được minh tâm kiến tâm thành Phật. 

Người tu tại gia có giữ giới, mới thành Phật tử chơn chính. Người xuất gia thọ Sa-di,có giữ giới mới phải là chơn tu. Thầy Tỳ-kheo có giữ giới mới phải là Tỳ-kheo thanh tịnh. Bồ Tát có giữ giới mới phải là chơn Bồ Tát. Bởi thế nên trong ba món vô-lậu học (giới,định,huệ ), "giới" đứng đầu tất cả. 

Tôn này sỡ dĩ lập ra là nhằm vào lợi ích thiết thực và chín chắn của giới luật, như đã trình bày ở trên. 

III.- Các Loại Giới Luật 

Giới luật có nhiều lọai từng bậc,tùy theo căn cơ, tùy theo giới tu sĩ, tùy theo sự phát nguyện của kẻ tu hành mà áp dụng. Nhưng nói một cách tổng quát thì giới luật có thể phân chia làm hai lọai lớn là: Giới lụât của Ðại Thưà và giới luật của Tiểu Thừa. 

-Những giới luật nào có tánh cách tiêu cực, tự lợi, chỉ có mục đích chính là tránh tội lỗi cho riêng mình là thuộc về giới Tiểu Thừa. Tất nhiên trong khi giữ giới cho riêng mình, thì người khác cũng được lợi như giữ giới không trộm cướp, thì mình được lợi là kềm giữ lòng tham,mà người khác cũng đượclợi là khỏi phải bịcái khổ vì tiếc của đã mất. Mặc dù thế, giới không trộm cướp cũng chỉ liệt vào giới Tiểu-thừa, vì trong khigiữ giới, mục đích chính, trực tiếp là giữ cho mình; còn cái lợi cho người chỉ ảnh hưởng gián tiếp của giới ấy. Những giới như: Ngũ giới (5 giới do Phật chế cho người tại-gia), Bát-quan-trai giới (8 giới Phật chế cho người tại gia-tập sống như người xuất gia), Sang-di giớivà Sang-di-nhiều giới (10 giới Phật chế cho người mới xuất gia), Thức-xoa (6 điều nữ học giới), Tỳ-kheo giới (250 giới), và Tỳ-kheo0nhiều giới (348 giới) là những giới thuộc về phái Tiểu-thừa. 

Những giới luật nào có tánh cách tích cực, nhám vào mục đích lợi tha hơn tự lợi tì thuộc về Ðại-thừa giớ. Những giới thuộc về Ðại-thừa giới như 10 giới trong 48 giới khinh của Bồ Tát, Tam-tụ tịnh giới (gồm có: Nhiếp-luật-nghi giới là giới không làm việc ác, Nhiếp-Thiện-Pháp giới là giới làm việc lành, Nhiêu-ích hữu-tình giới là giới làm ích lợi cho chúng sanh, như làm các việc có tánh cách từ thiện xã hội v.v..). 

Nếu đứng về phương diện hành trì mà phân loại, giới-luật có thể chia làm hai phần lớn: một phần thuộc về chỉ trì, nghĩa là ngăn đứt ác nghiệp, một phần thuộc về tác trì, tức hành động theo thiện-nghiệp. 

1.-Về chỉ trì: có hai bộ giới bổn: 

a.-Tỳ-kheo giới bổn, gồm có 250 giới, chia làm 8 loại là: 1.- Ba-la-di (4 giới), 2.-Tăng-tàng (13 giới), 3.-Bất-định (2 giới), 4.- Xã-đọa (30 giới), 5.- Ðơn-đọa (90 giới), 6.- Ðề-xà-nhiều (4 giới), 7.- Chúng-học (100 giới), 8.- Diệt-tránh (7 giới). Hai trăm năm mươi giới này có thể chia làm tám loại (ngũ thiên), sáu loại (lục tụ) hay bảy loại (thất tụ). 

b.-Tỳ-kheo-nhiều giới bổn (giới của Tỳ-kheo-nhiều gồm có 348 giới, chia làm 7 loại là: 

1.-Ba-la-di (8 giới), 2.- Tăng-tàn (17 giới), 3.-Xả-đọa (30 giới), 4.-Ðơn-đọa (178 giới), 5.-Ðề-xà-nhiều (8 giới ), 6.-Chúng-học (100 giới), 7.-Diệt-tránh (7 giới). Ba trăm mươi bốn tám giới này, có thể chia là bảy loại như trên, nhưng củng có thể làm tùy nghi chia làm năm loại, sáu loại ,bảy loại như bên tăng (1). 

Giới Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-nhiều trên này gọi là Cụ-túc giới, nghĩa là những giới đem lại cho người thọ vô lượng giới-hạnh, phước đức. Nhưng 250 hay 348 giới, chưa phải là nhiều. Ðó chỉ là giới tóm thâu những giới-luật chính, làm giềng-mối cho sự trì phạm mà thôi. Nếu kể cho hết giới-luật thì về "lượng" sánh đồng hư-không, về "cảnh" lại nan khắp cả pháp-giới. Nếu kể về bậc trung, thì bên tăng có đến 3.000 oai nghi, 80.000 tế-hạnh; bên Ni có đến 80.000 oai-nghi và 120.000 tế-hạnh. 

Vì sao Phật lập ra nhiều giới-luật như thế?  

- Vì mỗi một giới là ngăn ngừa tội lỗi, mà con người chúng ta là phàm phu, từ tâm niệm cho đến hành vi, có không biết bao nhiêu điều tội lỗi, nên phải có vô số giới luật để ngăn ngừa. 

2.- Về tác trì, gồm có 20 kiền-độ. 

Kiền độ nghĩa là phẩm loại, điều luật (Khanda). 

20 Kiền độ là: 

Thọ giới Kiền độ 

Thuyết giới Kiền độ 

An cư Kiền độ 

Tứ tự Kiền độ... 

Sự chia ra chủ trì và tác trì là cốt lõi dễ phân biệt trong khi giữ giới, chứ thật ra nói một cách rốt ráo thì trong chỉ có tác, trong tác có chỉ, không thể nói một cách dứt khoát được. 

(1) Chúng tôi chỉ giới thiệu những danh từ của các giới luật tăng, ni chứ không nói rõ hơn, vì theo luật Phật, người thọ giới ở cấp bực nào thì chỉ biết giới luật của cấp ấy mà thôi. 

IV.-Các Danh Từ Và Phương Pháp Thực hành 

Như chúng ta đã thấy ở trên, giới-luật của Phật chế ra rất nhiều; do đó, danh từ chuyên môn và cách thức giữ giới cũng rất phức tạp. Vậy muốn giữ giới được kết quả, trước tiên phải biết những điều sau đây: 

1.-Sao gọi là danh, chủng, tánh, tướng?. 

a.-Danh là tên (danh từ) nghĩa là tên chỉ mỗi giới, như giới bất sát sinh, giới bất thâu đạo.v.v... 

b.- Chủng là chủng loại, hay nhóm; như chúng ta đã thấy ở phần chia các giới của Tăng, Ni: Ba-la-di, Tăng tàng.v.v.. 

c.-Tánh là tâm tánh, là tánh chất ở bên trong; như người giữ giới, trong tâm niệm không nghĩ tưởng đến việc sát, đạo, dâm, vọng.v.v.. hoặc thấy người phạm giới cũng không sanh tâm vui mừng hay liên tưởng đến. Giữ gìn tâm tánh ở bên trong được thanh tịnh như vậy, gọi là giới tánh. 

d.- Tướng là hình tướng ở bên ngoài; như bên trong đã không nghĩ đến sát sanh, trộm cướp (tánh giới) .v.v.. mà bên ngoài cũng không làm những điều ác ấy, gọi là giới tướng. 

Tóm lại, mỗi khi phạm một điều tội lỗi, người giữ giới phải biết tội ấy là gì (danh), sát hay đạo .v.v..? thuộc về loại nào (chủng), Ba-la-di hay Tăng tàng.v.v..? thuộc về nội tâm (tánh) hay ngoài thân (tướng)? Và cuối cùng hành giả phải biết tôi ấy, theo luật phải trị phạt thế nào mới được thanh tịnh?  

Xem mục lục