Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (30)


Xem mục lục

IV.- Chủ Trương Của Duy Thức Tông  

Chủ-trương của Duy-thức tôn là phá trừ vọng chấp ngã, pháp (biến kế sở chấp), bằng cách chỉ cho chúng sanh thấy tất cả các pháp đều nương nơi thức hiện ra (y-tha khởi), và mục dích cuối cùng lá đưa chúng sanh trở về với tánh chân thật (viên-thành thật). Thế-giới hiện-tượng này này, vì mê-mờ, chúng ta tưởng là chắc thật, nhưng hteo chủ trương của Duy-thức học, thì vũ-trụ vạn-hữu đều là Duy-thức biến-hiện. Cũng như sơn hà, đại địa trong cảnh chiêm bao, không có cảnh vật ấy. 

Vậy, nếu chỉ cho chúng sanh thấy được một cách rỏ ràng, vũ-trụ vạn-hữu do thức biến-hiện ra như thế nào, thì chắc chắn chúng sanh sẽ không còn chấp thật ngã, thật pháp nữa. Cũng như khi biết cảnh vật trong chiêm bao là do tâm chiêm-báoanh ra thì không còn mê muội nơi cảnh chiêm-bao nữa. Mà không còn chiêm-bao tức đã thức-tỉnh. Cũng thế, khi không còn chấp thật ngã, thật pháp nữa, tất sẽ thấy được cảnh chân-thật của vũ-trụ vạn-hữu, (tánh viên thành-thật) . đó là chủ trương của Duy-thức tôn. 

Nói một cách vắn tắt, chủ trương của Duy-thức tôn là quy vũ-trụ vạn-hữu trở về Duy-thức tướng, rồi từ Duy-thức tướng trở về Duy-thức tánh (tâm chơn-như hay tánh viên-giác). 

V.- Thành Phần Của Hiện Tượng Giới 

(vũ-trụ vạn-hữu gồm cả tâm và pháp ). 

Phân Loại Theo Duy Thức Tông 

Hiện tượng giới, tức là vạn sự vạn vật trong vũ-trụ (gồm cả tâm lẫn vật), tuy nhiên không thể kể xiết được, nhưng dưới nhãn-quan của nhà Duy-thức học, có thể phân ra thành năm loại; năm loại này lại chia thành 100 thành phần hay 100 pháp. 

Năm loại lớn ấy là: 

1.- Tâm-vương tức là tướng của thức, thuộc về tâm-giới. 

2.- Tâm-sở tức là dụng của thức, cũng thuộc về tâm-giới. 

3,- Sắc-pháp tức là ảnh-tượng của thức, thuộc về sắc-giới.  

4.- Bất-tương-ứng-hành tức là phận-vị sai khác của thức, không phải thuộc hẳn về tâm mà cũng không thuộc về sắc-giới, nhưng gồm cả hai phần mà thành. 

5.-Vô-vi tức là tánh của thức, cũng gọi là chơn như  

Bốn loại trên: tâm-vương, tâm-sở, sắc-pháp, bất tương ưng hành đều thuộc về " hữu vi",tức là " tướng ,có sanh diệt. 

Loại thứ năm, là pháp "vô vi", không sanh diệt, không tạo tác, tức là " tánh " của các pháp, hay chơn như. 

Năm loaại lắn trên đây, môĩ loại lại chia làm nhiều thành phần, có những tác dụng hành tướng riêng biệt, mà chúng ta cần nghiên cứu kỷ sau đây: 

1.-Tâm vương 

Tâm vương gồm có tấm món, mỗi món có những đặc tánh, khả năng và nhiệm vụ riêng biệt, như mỗi ông vua làm chủ mỗi nước, nên gọ là tâm vương. Tám phần của tâm vương là: 

a) Nhãn thức 

b) Nhĩ thức 

c) Tỹ thức 

d) Nhận thức 

đ)Thân thức  

e)Ý thức 

h)A-lại da thức 

Chúng ta có năm giác quan, mỗi giác quan có một sỡ năng, một cái biết riêng: khi ta nhìn một cái hoa, biết cái hoa ấy màu vàng hay đỏ v.v...cái biết ấy thuộc về con mắt, nên gọi là nhãn thức. Khi chúng ta nhge đàn, biết tiếng đàn ấy cao hay thấp, to hay nhỏv.v...cái biết ấy thuộc về tai, nên gọ là nhĩ thức. Khi ta ngữi một mùi gì, biết được mùi ấy thơm hay hôi, cái biết ấy thuộc về mũi, nên gội là tỷ thức. Khi chúng ta nếm một món ăn gì, biết được món ăn ấy mặn hạylat, chua hay ngọt, cái biết ấy thuộc về lưỡi, nên gọi là thiệt thức. Khi chúng ta đụng vào một vật gì, biết vật ấy cứng hay mềm, nóng hay lạnh, cái biết ấy thuộc về thân thể, nên gọi là thân thức. 

Năm cái biết trên này: Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiềtva Thân thức, thuộc về năm giac quan bên ngoài nên chúng ta dễ nhận. 

Ba cái biết sau này: Ythưsc, Mạt-na- thức, A-lại-được-thức, thuộc về nội tâm, và theo thứ lớp, ẩn sâu vào trong, tế nhị hơn, nên khó nhận khó biết. Tuy thế, đối với nhà duy thức học, người ta cũng có thể nhận biết được rành rẽ hành tướng  

phân biệt được phạm vi hoạt động, sở trường , sở đoản và công năng của mỗi thứ. 

Trước tiên, chúng ta nói đến thức thứ sáu hay"Ý thức". 

Yĩ thức có hai phạm vi hoạt động: 

-Khi nào ý thức hiẹp với năm thức trước, tiếp xúc với cảnh, thì gọi là " Ngủ của ý thức", hây là " Minh liẽu ý thức". Trong lúc mắt thấy sắc, tai nghe tiếng v.v...mà không có ý thức phụ vào (để ý) thì mặc duù mắt vẫn thấy, tai vãn nghe, nhưng thấy nghe không được rõ ràng. Sách nho chép:"Tâm bất tại diên, thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn" ( nếu không chú ý, thì dù xem cũng chẵng thấy, lắng cũng chẵng nghe). Trái lại, khi có ý thức phụ vào, thấy nghe v.v...đều minh bạch. 

-Khi nào ý thức làm việc một mình, không cùng hợp tác với năm thức trước, thì gọi là "Ðơn độc ý thứ" hay "Ðộc đầu ý thức".như trong lúc năm thức trước không tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị và xúc, mà trong tâm trí vẫn lưu lại bóng dáng(pháp trần) của năm trần. Khi chúng ta nhớ tưởng lại, thì cảnh ngủ trần in như hiện rõ ràng ở trước, đó là công dụng của " Ðộc đầu ý thức". Thức thứ sáu này, khi tính tóan, suy nghĩ việc gì, thiện hay ác, hay hay dở, cũng đều lanh lợi đảm đang hơn các thức khác, nên trong duy thức nói:" Công vi thủ, tội vi khôi"( Có cngthì nó đứng đầu, mà có tội nó cũng đứng đầu). 

Thức thứ sáu, tuy sở trường là khôn ngoan lanh lợi, nhưng lại có sở đỏan là bất thường, không phải lúc nào cũng hiện diện, mà lại có khi gián đoạn, ẩn phục, như trong lúc bị hụp thuốc mê, chết giả, ngủ say, hay nhập vô tưởng định v.v...Qua những giai đọan ấy, ý thức lại hiện trở lại. 

Vậủy trong lúc ý thức không hiện, nó núp ở đâu? 

Theo duy thức,khi đó, thức thứ sáu trở về gốc của nó là ý căn, tức là thức thứ bảy hay thức Mạt-na. Theo tâm lý họcthì cũng có thể gọi là tiềm thức. 

Thức thứ bảy này có hai công năng: 

-Chấp ngã; 

-Làm căn bản choÝ thức thứ sáu. 

Nnó có công là đem các pháp hiện hành bên ngoài truyền vào tạng thức và đem các pháp chủng tử bên trong tống ra ngoài nên nó có tên là truyền tống thức. Sự cháp ngã của tức này và của thức thứ Sáu, có thô và tế khác nhau. Khi nào để ý bảo thủ bản ngã, như khi ra trận bắn nhau với địch quân, khi đánh lộn, hay tìm một kế gì để sanh nhai, thì sự chấp ngã ấy thuộc về thức thứ Sáu. Thực ra không có lúc nào chúng ta không chấp ngã, sự chấp ngã vẫn thường trực trong chúng ta . nhưng nó âm thầm, sâu kín, tiềm trực, nên chúng ta không nhận thấy được. Ðến lúc bất ngơ, đột nhiên xãy ra một sự việc gì đó có nguy hại đến tánh mạng ta, như bất thần có người rình rập, hay đi ra đường bị nhành cây gãy sắp rơi xuống đầu...trong những lúc ấy, tuy thức thứ Sáu không kịp để ý can thiệp, đối phó mà ta vẫn tự tránh né, bảo thủ cái ngã. Ðó là ự chấp ngx của thức tứ bảy. 

Ngoài bảy thức nói trên, còn có một thức thứ tám tế nhị, sâu kín mênh mông hơn nữa, đó là thức A lại da, Tàu dịch là tàng thức, nghĩa là thức Tích chứa. 

Từ nhỏ đến lớn chúng ta đọc rất nhiều sách, tếp xúc với nhiều sự vật, rồi thời gian cứ tuần tự trôi qua, chúng ta tưởng đã quên mất rồi. Thế mà không ! Mỗi khi ngĩ dến thì danh từ, hình ảnh của những vật xưa củ hiện ra rỏ ràng như một cuốn phim quay lại ở trước mắt. Những danh từ hình ảnh ấy, vì sao mấy chục năm qua mà vẫn còn lại? Tất nhiên phải có một cái kho vô tận chứa lại, nên mới không mất vậy ! Kho vô tận này trong duy thức tôn gọi là tàng thức (thức chứa). 

Ðể cho dễ nhớ hành tướng và công năng của tám thức nói trên, cổ nhân có làm bài kệ rằng: 

Nguyên văn: 

Bát cá đệ huynh, nhứt cá si 

Ðộc hữu nhứt cá, tối linh tinh 

Ngủ cá môn tiền tô úmãi mại 

Nhất cá gia trung tác chủ y. 

Dịch nghĩa: 

Anh em tám chú một người si (thức thứ bảy) 

Một mình ý thức rất tinh ranh (thức thứ sáu) 

Năm chàng ngoài cửa lo buôn bán (năm thức trước) 

Làm chủ trong nhà, thức lại da (thức thứ tám). 

2.- Tâm sở 

Tâm sở là tánh sở hữu, phụ thuộc của Tâm vương, cũng như ông quan trong triều, phụ thuộc dưới quyền sai sử của ông vua, hay những nhân viên phụ thuộc dưới quyền sử dụng của vị Bộ trưởng. Tâm sở có tất cả 51 pháp, chia làm sáu loẵi như sau: 

1.- Biến hành Tâm sở: Biến là phổ biến, hành là lưu hành; Biến hành Tâm sở nghĩa là những tâm sở có công năng phổ cập lưu chuyển khắp cả tám thức (tâm vương), với thức nào nó củng tương ưng được cả. Biến hành Tâm sở gồm có 5 pháp là: Xúc, Tác ý, Thọ,Tưởng và Tư. 

2.-Biệt cảnh Tâm sở: Biệy là riêng biệt, Biệt cảnh Tâm sở là những tâm sở riêng mỗi cảnh khác nhau, như dục Tâm sở duyên riêng với cảnh mà mình ưa muốn; Huệ tâm sở riêng với cánh mà mình quan sát...chứ không phải như Biến hành tâm sở. Biệt cảnh Tâm sở gồm có 5 pháp là : Dục, Thắng giải, Niệm, Ðịnh và Huệ. 

3.- Thiện Tâm sở: Thiện Tâm sở là tâm sở lành và có công năng phát sanh những điều lành mà thôi. Thiện tâm sở gồm có 11 pháp là: Tín, Tàm, Quý, Vô tham, Vô sanh, Vô si, Tinh tấn, Khinh an, Bất phóng dật, Hành xã và Bất hại. 

4.-căn-bản phiền-não tâm sở: những tâm-sở này gây phiền não, rối loạn cho chúng sanh. Ðây là những phiền-não làm cội góc cho các phiền-não phát sinh, nên gọi là căn bản phiền-não. Căn bản phiền-não bao gồm có sáu pháp là: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Aĩc-kiến. 

5.- Tùy phiền-não tâm-sở: Những tâm-sở này nương tựa, phát sanh từ các phiền-não căn bản tâm sở nói trên, nên gọi là tùy phiền-não. Những tâm sở căn bản phiền-não trên là góc mà những tâm sở phiền-não này là ngọn. Tùy phiền-não tâm sở gồm có 50 pháp là: Phẫn, Hậu, Phú, Não, Tật, Xan, Cuốn, Siển, Hại, Kiêu, Vô-tàm, Vô-quí, Trạo-cử, Hồn-trầm, Bất-tín, Giải-đãi, Phóng-dật, Thất-niệm, Tán-loại, Bất-chánh-triều. 

6.- Bất định tâm sở: Bất-định nghĩa là không nhất định; bất định tâm sở là những tâm sở không nhất định thiện hay ác; không đứng hẳn về một phía thiện hay ác; như các pháp nói trên. Bất định tâm sởn gồm có bốn pháp là: Hối, Miên,Trầm, Tư. 

3.-Sắc pháp  

Sắc-pháp tức là những pháp có thể hư nát và có tánh cách chướng ngại. Sắc-pháp là sự phối hợp của năm căn và sáu trần, cộng tất cả là 11 pháp: 

Năm căn là: Nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân. 

Sáu trần là: Sắc, thinh, hương, vị, xúc, và pháp trần. 

4.- Bất tương-ưng hành pháp 

Các pháp này không thuộc về sắc mà cũng không thuộc về tâm; nhưng chúng nó không thể rời sắc và tâm mà có được. Thí dụ như đắc (được) là một bất tương-ưng pháp. được không thể là sắc mà cũng không thể nào là tâm. Nhưng khi nói được, tức là hàm cái nghĩa được một cái gì, nhưng được một đồng bạc chẳng hạn, va fphải có một yếu tố thứ hai là ai được. Ðồng bạc thuộc về sắc, ai thuộc về tâm. Còn được không phải lá sắc và tâm mới có. Ðó là một thí-dụ để chúng ta suy-gẫm về những pháp Bất-tương-ưng khác, như mạn-căn, sanh, trụ, dị, diệt, phương, thế tốc .v.v.. gồm tất cả là 14 pháp. 

5.- Vô-vi pháp  

Như đọan trên đã có nói, pháp vi-vô là pháp không sanh, không diệt, không tạo-tác, không thay đổi, xa lìa tướng hư vọng., tức là thể-tánh của các pháp. Các pháp vô-vi, đối với phàm-phu thì khó có thể nói-năng, nghĩ bàn, so sánh được. Tuy thế, để có một ý-niệm về thể-tánh chơn-như, nhà chủ trương Duy-thức dựa vào sắc tướng, danh tự để hình dung các pháp vô-vi. Do đó, mà đặt sáu pháp vô-vi sau đây:  

a). Hư không vô-vi: Muốn nói thể-tánh chơn-như, xa lìa các đều chướng ngại, giống như hư-không. 

b).Trạch-diệt vô-vi: Trạch là lựa chọn, Diệt là diệt trừ, nghĩa là nhờ các sự lựa chọn đứng-đắn của Trí-huệ vô lậu mà diệt trừ được sự phiền não nhiễn trước , chứng ngộ cứu cánh. 

c). Phi-trạch diệt vô-vi: trên thì nói nhờ sự lựa chọn, đứng đắn của trí-huệ mà diệt trừ được sự phiền não nhiếm trước. Nhưng nói thế không có nghĩa rằng pháp-tánh nhờ có sự diệt trừ phiền-não mới có được. Pháp-tánh vốn đã có sẳn, xưa nay là vốn là thanh-tịnh, không có nhiễm ô, không có sanh diệt, cho nên gọi là phi-trạch diệt vô-vi. Lại có nghĩa thứ hai là vì thiếu duyên, nên các phiền-não nhiễm-ô không hiện; vì thế mà pháp vô-vi thanh-tịnh tự hiện ra, không cần có sự trạch diệt. 

d).Bất động diệt vô-vi: khi đã xa lìa các phiền-não, về cõi tịnh lự thứ ba, thuộc về sắc-giới, dứt bỏ những sự vai buồn, thường tương ưng cùng xả thọ, không còn bị lay động bỡi một sắc tướng gì nữa, nên gọi là bất động diệt vô-vi: Khi đã xa lìa các phiền não , về cỏi tịnh lự thứ ba, thuộc về sắc giới, dứt bỏ những sự vui buồn, thường tương ưng cùng xả thọ, không còn bị lay động, bởi một sắc tướng gì nữa, nên gọi là Bất động diệt vô-vi . 

e). Tưởng thọ diệt vô-vi: Khi đã xa lìa được phiền não ở cõi thứ ba thuộc về vô sắc giới, các tâm sở tưởng, thọ đều tịch diệt, chơn như hiện ra, nên gọi là Tưởng thọ diệt vô-vi. 

f) Chơn như vô-vi: Năm pháp vô-vi trên này là hình dung các đức tánh của chơn như; pháp thứ sáu này là "Chơn như vô-vi", mới chỉ đích danh bản thể chơn như. 

Ðể người đọc dễ nhớ 100 pháp vừa kể trên này, cổ nhân có làm một bài kệ, tóm tắt như sau. 

Nguyên văn: 

Sắc pháp thập nhất, tâm pháp bát 

Ngũ thập nhất cá tâm sở pháp  

Nhị thập tứ chủng bất tương ưng 

Sáu món vô vị, thành trăm pháp  

Dịch nghĩa: 

Sắc pháp mười một, tâm pháp tám 

Năm mươi mốt món tâm sở pháp  

Hai mươi bốn món bất tương ưng 

Sáu món vô-vi , thành trăm pháp . 

VI.- Phương Pháp tu hành 

Như chúng ta đã biết vũ trụ vạn hữu tuy vô cùng phức tạp, nhưng nhà duy thức học có thể sắp xếp thành 100 loại (bách pháp ). Một trăm loại này, tuy hình tướng công năng có khác nhau, chung cục lại cũng đều Thức cả. 

Vậy phương pháp tu hành của nhà duy thức học là làm thế nào để chứng ngộ cái lý nói rên, thế nhập với cái chơn lý ấy. Ðể đạt được mục đích này nhà duy thức học dạy phải thực hành 5 pháp quán sau đây, gọi là Ngũ trùng duy thức quán. với năm pháp quán này,hành giả đi từ thô đến tế, từ phức tạp đến tinh thuần, để cuối cùng chỉ còn thấy có thức tánh, tức là tâm chơn như. 

1.- Bỏ cái hư giả, lưu lại cái hư thật. (khiển hư, tồn thật): Bỏ cái hư giả ức là các vọng chấp thật có ngã, có pháp do cái tánh biến kế chấp tạo ra. Lưu lại cái chân thật, tức là cái tánh y-tha-khởi và viên-thành. Nói một cách khác cho dễ hiểu, trong pháp quán này, hành giả phải quán ngã và pháp là không thật ( hư) để phá trừ cái chấp thật có. Hành giả lại quán tánh y tha, viên thành là thật có (thật) để phá trừ chấp không. Trong lối quán duy thức từng thứ nhất này, có và không đối đãi nhau, để bỏ biến kế chấp lưu lại y tha và viên thành. 

2.- bỏ cái lộn lạo, lưu lại cái thuần túy (xả lạm lưu thuần): Cái lộn lạo nói ở đây là tướng phần (nội cảnh); có thuần túy ở đây là kiến phần. Bỏ cái lộn lạo, lưu cái thuần túy, tức là bỏ phần tướng bị duyên (sở duyên) mà lưu lại cái phần kiến là phần năng duyên. Ðây là quán thứ hai về lối duy thức, lấy tâm (năng) và cảnh (sở) đối đãi với nhau, và mục đích là bỏ cảnh (xả lạm) mà chỉ giử lại tâm (lưu thuẩn). Lối quán thứ nhất là bỏ vọng cảnh ngoài tâm; lối quán thứ hai này là bỏ cảnh nội tâm là tướng phần của thức. 

3.- Ðem cái ngọn trở về gốc (nhiếp mạt quy bổn): Cái ngọn ở đây tức là muốn nói tướng phần và kiến phần, còn gốc ở đây tức là tự chứng phần. Kiến phần và kiến phần là dụng đều y theo tuẹ chứng phần mà khởi ra, nên gọi là ngọn; còn tự chứng phần là thể tánh cho nên gọi là gốc. Lối quán duy thức thứ ba này là đem dụng và thể đối đãi với nhau, mà mục đích là bỏ cái phần thuộc tương đối ít quan trọng là dụng (kiến phần), chỉ giử lại cái phần căn bản là thể (tự chứng phần).  

4.- Giấu cái liệt làm hiển lộ cái thắng (ẩn liệt hiển thắng): Cái Liệt muốn nói ở đây tức là các tâm sở, cái Thắng tức là các tâm vương. Tâm sở phụ thuộc vào cái tâm vương nên gọi là liệt, hay kém ; tâm vương là phần sai sử chủ động, nên gọi là thắng, hay hơn. Lối quán duy thức thứ tư này là đem 51 món tâm sở so sánh với 8 món tâm vương, và mục đích là dẹp bỏ các món tâm sở và làm hiển lộ 8 món tâm vương. 

5.- Bỏ thưc tướng về thức tánh (khiển tướng chứng tánh): Bốn tầng quán Duy thức trên, tuy rốt ráo chỉ còn giử lại các món tâm vương, nhưng tâm vương cũng có sự tướng và lý tánh. Lối quán thứ năm này là đem sự tướng đối đãi với lý tánh, mà mục đích cuối cùng là bỏ sự tướng của thức (thức tướng) để trở về với lý tánh của thức (thức tánh), tức cũng là chứng nhập Pháp tánh hay tâm Chơn như (quý độc giả muốn hiểu rỏ thêm, xin xem bài duy thức quán đâị cương của Ngài Thái Hư Pháp sư). 

Ngoài năm lớp quán Duy thức của cổ nhơn mà chúng tôi vừa kể trên, còn có một lối tu nữa rất dễ dàng và thiết thực, hợp với đại chúng là chúng ta thường quan sát và kiểm điểm nội tâm của mình. 

Chúng ta hãy độc kỹ về hai lọai Phiền não tâm sở và Thiện tâm sở trong Duy thức, để nhìn rỏ mặt mày tướng trạng, công dụng, tánh tình và danh tự của chúng. Rồi hằng ngày chúng ta kiểm điểm ở nội tâm: Mỗi khi hiện lên một tâm niệm gì, chúng ta kiểm điểm và quan sát thật kỹ tâm niệm này thiện hay ác (phiền não). Nếu tâm niệm thiện thì chúng ta nuôi dưỡng cho nó phát-triển thêm, còn nếu tâm niệm ác thì chúng ta mau mau lo diệt trừ đi. Chúng ta biết sữa đổi tâm niệm xấu (tu tâm) và nuôi dưỡng tánh tốt (dưỡng tánh) như thế phải thì chúng ta se ỵthành được Thánh hiền (xem quyển tu tâm và dưỡng tánh). 

Xem mục lục