Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (30)


Xem mục lục

Về Tợ dụ có 10, chia làm 2 loại: 

I. TỢ ĐỔNG DỤ CÓ 5: 

1. năng lập pháp bất thành,_ Phàm cái nhơn là để thành lập cái Tôn, nên cái Nhơn là  
"năng lập pháp" còn cái Tôn là "Sở lập pháp". Cái Dụ này trái ngược Nhơn, nên bị lỗi "bất thành" 

Như lập  
Tôn: Con ngựa hay chạy  
 Nhơn : Vì có bốn vó  
Đồng dụ : Như con rắn hổ ngựa 

Cái Dụ này hiệp với Tôn (chạy hay), ttrái với Nhơn (thiếu chân) 

2. Sở lập pháp bất thành._ Nhơn là Năng lập mà Tôn là Sở lập (bị lập). Cái dụ này trái ngược  
với Tôn, nên cũng bị lỗi "bất thành". 

Như lập  
Tôn: Người ta không bay được.  
 Nhơn : Vì thiếu hai cánh  
Đồng dụ : Như mây (không cánh, bay dược) 

Cái Dụ này hiệp với Nhơn (thiếu cánh) và trái ngược với Tôn và Nhơn. Bởi lấy Dị dụ làm  
Đồng dụ, nên bị lỗi "bất thành". 

Như lập  
Tôn : Tiếng thường còn  
 Nhơn : Vì tai nghe vậy  
Đồng dụ : Như bàn, ghế. 

Bàn, ghế "vô thường" nên trái với Tôn, và "tai không nghe được", nên trái với Nhơn. 

4. Vô hiệp._ Cái Dụ này không có lời phối hiệp để kết thúc lại cho dễ hiểu. 

Như lập  
Tôn : Người ta phải chết  
 Nhơn : Vì có sanh vậy  
Đồng dụ : Như chim v.v... 

Đáng lẽ phải nói lời phối hiệp để kết thúc lài như vầy: "Người ta có sanh (Nhơn) phải có chết  
(Tôn). Phàm vật gì có sanh (Nhơn) phải có chết (Tôn), như chim v.v..."thời người ta mới  
dễ hiểu. Cái này chỉ nói tắt rằng "như chim"; làm cho người ta không hiểu: Như chim có  
hai cánh, hay là như chim có mỏ?nên bị lỗi "vô hiệp". 

5. Đảo hiệp._ Lời thí dụ, kết thúc phối hiệp lại trái ngược. Phàm kết thúc phối hiệp thì phải  
nói cái nhơn trước rồi nói cái Tôn sau. 

Như lập  
Tôn : Người ta phải chết  
Nhơn : Vì có sanh vậy  
Đồng dụ : Phàm vật gì có sanh (Nhơn) thì phải có chết (Tôn)như chim v.v ... 

Nay kết thúc lại trái ngược, nghĩa là: Phối hiệp Tôn trước rồi nhơn sau.  
Như lập  
Tôn : Người ta phải chết  
Nhơn : Vì có sanh vậy  
Đồng dụ : Phàm có chết (Tôn) phải có sanh (Nhơn) như chim v.v ... 

Bởi vì nói "có sanh phải có chết" thì ai cũng thấy; còn nói "có chết phải có sanh", người ta  
khó nhận. 

II. TỢ DỊ DỤ CÓ 5: 

Phàm Dị dụ là dụ bề trái của Tôn và Nhơn, ne6n phải hoàn toàn trái ngược với Tôn và Nhơn. 

1. Sở lập pháp bất khiển._ Cái Dị dụ này không trái với Tôn 

Như lập  
Tôn : Tiếng nói thường còn  
Nhơn : Vì vô hình vậy  
Đồng dụ : Như hư không  
Dị dụ: như vi trần (vi trần hữu hình và thường còn) 

vi trần có hình chất màlại thường còn. Nếu lấy vi trần làm Dị dụ, thì chỉ trái với  
Nhơn (vô hình) mà không trái với Tôn (thường) nên bị lỗi. 

2. Năng lập pháp bất khiển._ cái Dị dụ này không trái với Nhơn 

Như lập  
Tôn : Tiếng nói thường còn  
Nhơn : Vì vô hình vậy  
Đồng dụ : Như hư không  
Dị dụ: như điện chớp (vô hình, không thường). 

Lấy điện chớp làm Dị dụ, thì chỉ trái với "Tôn thường còn", mà không trái với  
"Nhơn vô hình", nên bị lỗi. 

3. Câu bất khiển,_ cái Dị dụ không trái với Tôn và Nhơn. Lỗi này vì lấy Đồng dụ làm Dị dụ. 

Như lập 

Tôn : Người phải chết  
Nhơn: Vì có sanh vậy  
Đồng dụ : Như cỏ cây  
Dị dụ: như loài vật 

Phàm Dị dụ là phải trái với Tôn và Nhơn. Nay dùng cái Dị dụ này không trái với Tôn và  
Nhơn nên bị lỗi. 

4. Bất ly._ Dị dụ không có lời kết thúc để ly biệt Tôn và Nhơn 

Như lập  
Tôn : Tiếng nói thường còn  
Nhơn : Vì không hình chất  
Đồng dụ : Những gì vô hình đều thường còn, như hư không  
Dị dụ: như bàn ghế 

Về Dị dụ, đáng lẽ cũng phải có lời phối hiệp kết thúc để ly biệt Tôn và Nhơn như vậy: 

"Phàm những gì vô thường, thì đều có hình chất, như bàn ghế". Nay chỉ nói tắt rằng:  
"Như bàn ghế" Làm cho người  
ta không hiểu: Như bàn ghế có bốn chân? Hay như bàn ghế có mặt? 

Phải lưu ý: Về Đồng dụ, nếu thiếu lời phối hiệp để kết thúc, thì gọi là "Vô hiệp";  
còn bên Dị dụ, nếu thiếu lời phối hiệp  
để kết thúc, thì gọi là "bất ly". 

5. Đảo lỳ._ Lời kết thúc của Dị dụ, để ly biệt Tôn và Nhơn, lại phối hiệp mốt cách trái ngược. 

Như lập  
Tôn : Tiếng thường còn  
Nhơn : Vì vô chất ngại  
Đồng dụ : Như hư không 

Dị dụ: những gì có chất ngại (Nhơn) đều vô thường (tôn) như bình, bàn v.v... 

Phàm lời phối hiệp để kết thúc của Dị dụ là phải nói Tôn trước rồi Nhơn sau, mới thuận.  
Như nói: "Những gì vô thường (Tôn) thì đều có chất ngại (Nhơn) như bình, bàn v.v...  
"Nay phối hiệp ngược lại Nhơn trước Tôn sau, nên bị lỗi "Đảo ly". 

Lưu ý:_ về Đồng dụ, khi kết thúc, phải nói Nhơn trước rồi nói Tôn sau. Nếu trái lại thì bị lỗi  
"Đảo hiệp". Về Dị dụ, khi kết thúc, phải nói Tôn trước rồi nói Nhơn sau. Nếu trái lại thì bị lỗi  
"Đảo ly". 10 lỗi về Tợ Dụ đã giải thích rồi. 

*** 

PHỤ BÀI HỌC ÔN

Quý vị nên xét kỹ các lượng sau này: Tôn thuộc về lỗi gì? Nhơn thuộc về lỗi gì? Và Dụ thuộc về  lỗi gì? 

Lượng thứ I 

Tôn : Người ta phài chết 

Nhơn : Vì có sanh vậy 

Đồng dụ : Phàm có chết phải có sanh, như chim 

Dị dụ: Phàm không sanh thì không chết, như hư không 

Lượng thứ II 

Tôn : Tiếng nói thường còn 

Nhơn : Vì vô hình vậy 

Đồng dụ : Như hư không 

Dị dụ: như vi trần 

Lượng thứ III 

Tôn : Tiếng nói thường còn 

Nhơn : Vì tai nghe vậy 

Đồng dụ : Như hư không 

Dị dụ: như điện chớp 

Lượng thứ IV 

Tôn : Người ta phải chết 

Nhơn : Vì có sanh vậy 

Đồng dụ : Như cỏ cây 

Dị dụ: như loài vật. Hoặc lập nhiều lượng khác 

LỢI ÍCH HỌC NHƠN MINH LUẬN

Trong các Kinh điển Đại thừa, phần nhiếu Phật dạy các đệ tử phải biết Ngũ minh  (1. Nội minh, 2. Nhơn minh, v.v...)  thời việc hoá đạo mới được nhiều lợi ích. Trong Ngũ minh, Nhơn minh là một. 

Nhờ biết Nhơn minh nên lời nói ít lỗi, luận lý vững vàng, có thể thuyết phục được các tà thuyết  đem về chánh đạo. 

Nhờ biết Nhơnminh, mới học nổi được các bộ luận trong Phật giáo. Vì trong các bộ luận ấy  phần nhiều dùng nhơn minh  để lập Chánh lý và phá các tà thuyết. 

Tóm lại, Nhơn minh là một môm Luận lý học, vừa lợi ích cho mình và lợi ích cho người. 

Sa môn THÍCH THIỆN HOA  
Sửa lại và viết xong mùa thu năm Mậu tuất (1958)  

Chùa PHẬT QUANG (Trà Ôn)  

Xem mục lục