Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (30)


Xem mục lục

3. Đồng phẩm nhứt phần chuyển, Dị phẩm biến chuyển bất định: 

BIỂU 

Tôn : Chỗ kia có khói Nhơn: Vì có lửa vậy  
Như Như lửa rượu alcool 

Đồng dụ: (có lửa, không khói) 
Lập Như lửa ở nhà bếp  
(có lửa, có khói) 

Dị dụ: Như lửa ở nhà bếp  
(có lửa, có khói). 
Nếu cái Nhơn "vì có lửa", dụ như lửa ở nhà bếp, thì Tôn này có "khói"; còn "vì có lửa",  
dụ như lửa rượu, thì cái Tôn này "không khói". Vì cái Nhơn này, đối với Tôn "có khói" hay  
"không khói" đều không nhứt định, nên cái Nhơn này có lỗi bất định. Bởi người ta có thể  
lập ngược lại như vầy:  
Tôn : Chỗ kia không khói 

Như Nhơn : Vì có lửa vậy 

lập Đồng dụ: Như lửa Alcool (có lửa, không khói) 

Dị dụ : Như lửa ở nhà bếp (có lửa, có khói) 

4. Dị phẩm nhứt phần chuyển, Đồng phẩm biến chuyển bất định: 

cái Nhơn này đối với Dị dụ, có dính líu một phần, còn đối với Đồng dụ thì phải hoàn toàn  
dính líu, nên cái Nhơn này cũng bị lỗi "bất định". 

BIỂU Tôn : Con khỉ leo cây giỏi 

Nhơn: Vì có hai tay. 

Như Đồng dụ: Như con 

Dị dụ _ Như con bò (không tay, không biết leo) 

_ Như con rắn (không tay, leo cây giỏi). 

Phàm Đồng dụ thì phải hoàn toàn liên quan cả Tôn và Nhơn; còn Dị dụ thì hoàn toàn không  
dính líu gì đến Tôn và Nhơn, như thế mới đúng. 

Nay cái Nhơn này, đối với Dị dụ bị dính líu hết mốt phần. Bởi thế cái tánh chất thứ ba của  
Nhơn là "Dị phẩm biến vô tánh", nên bị lỗi; vì khách có thể hỏi lại rằng: "Vì không tay,  
nên leo cây giỏi như con rắn"; hay vì không tay, nê "chẳng biết lao cây như con bò?".  
Bởi thế nên cái Nhơn này bị lỗi "bất định". 

5. Câu phẩm nhứt phần chuyển bất định: 

Cái Nhơn này, đối với Đồng dụ và Dị dụ đều chỉ có dính líu một phần, nên cũng bị lỗi "bất định". 

BIỂU 

Tôn: Tiếng vô thương 

Nhơn: Vì mắt không thấy 

Như tánh giận, buồn v.v... 

(mắt không thấy và vô thường) 

Như Đồng dụ Như ruộng, nhà v.v...(mắt thấy 

lập Và cũng vô thường) 

Như Hư không 

(thường, mắt trông thấy) 

Dị dụ Như Giác tánh (thường, mắt không thấy) 

Cái thí dụ thứ hai: 

Tôn: Người ta ai cũng phải chết 

Nhơn: Vì vật hữu tình vậy 

Đồng Như cầm thú (hữu hình dụ có chết) 

dụ Như nước biển (hữu hình, không chết) 

Như lập 

Dị dụ Như hư không (vô hình không chết) 

Như tượng gỗ (hữu hình không chết) 

Nếu cái Nhơn "vì hữu hình" này, mà dụ như cần thú, thì cái Tôn nàu có chết", còn cái Nhơn  
"vì hữu hình" mà thí dụ như nước, thì cái Tôn này "không chết". 

Phàm Dị dụ là dụ bề trái của Tôn và Nhơn, nên phải dùng những vật "không chết".  
(trái với Tôn) và "vô hình" (trái với Nhơn) để làm thí dụ._ Nay cái Dị dụ này chỉ trái  
với Nhơn được phân nữa. Vì ngoại nhơn có thể hỏi lại rằng: vậy "hư không, không chết"  
vì vô hình vậy? Hay "tượng gỗ không chết "vì hữu hình vậy? Bởi hữu hình (tượng gỗ)  
vô hình (hư không) đều không chết, nên cái Nhơn này bị lỗi "bất định". 

6. Tương vi quyết định bất định: 

Chủ và khách lập lượng trái nhau; song cả hai đều không có lỗi, và đều quyết định thành lập được.  
Nhưng không bên nào phá dược bên nào. 

Tôn : Sóng thường còn 

Nhơn: Vì sóng tức là nước 

Khách lập Đồng dụ : Như điện. 

Tôn : Sóng là vô thường 

Chủ phá Nhơn : Vì chuyển động dược 

Đồng dụ : Như gió. 

Hai cái lượng này rất mâu thuẩn nhau, song đều quyết định thành lập được. Bên khách vẫn  
công nhận "sóng có chuyển động", bên chủ cũng nhận "sóng tức là nước". Nhưng không bên  
nào phá được bên nào, nên Nhơn này bị lỗi "bất định". Đây cũng là vì thiếu lời lẽ khôn khéo,  
để làm cho "người ta phục mình. Thưở xưa có người nói: Ai lập trước thì hơn". 

Phải lập Tôn : Sóng không thường còn 

Nhơn : Vì nó là nước bị gió động 

như vầy Đồng dụ: Cũng như gió. 

6 lỗi "Bất định" đã giải thích rồi, bây giờ sẽ nói đến 4 lỗi tương vi. 

III. BỐN LỖI TƯƠNG VI 

1. Pháp tự tướng tương vi._ Cái Nhơn trái (mâu thuẩn) với tự tướng (lời nói trắng)  
của danh từ sau 

Tôn: Gió thường còn 

Như lập Nhơn : Vì có động vậy 

Đồng dụ : Như hư không 

Dị dụ : Như sóng. 

Đã có động thì làm sao lại thường còn; nên cái Nhơn "có động" này, rất trái với tiếng  
"thường còn" là lời nói trắng về danh từ sau của Tôn. 

2. Pháp sai biệt tương vi Nhơn._ Cái Nhơn trái (mâu thuẩn) với ý hứa (ẩn ý) của danh từ sau 

Tôn: Loài người quyết định có tạo ra 

Như lập (ý hứa là một vị thần). 

Nhơn : Vì có trí khôn và mắt, tai v.v... 

Đồng dụ : Như con do cha mẹ sanh ra 

trong cái Tôn này, về chữ "quyết định có người tạo ra "là do người lập Tôn, ẩn ý của họ  
muốn nói: Người tạo ấy là một vị Thần. Và ẩn ý của họ cho vị Thần ấy có ba đức tánh sau này:  
1. Toàn trí toàn năng, 2. Thường còn, 3. Độc tôn.  
Nhưng cái Nhơn này nó lại trái ngược (mâu thuẩn) với ẩn ý của họ: 

1. Nếu vị thần ấy tạo ra loài người có trí khôn và mắt tai v.v...như cha mẹ sanh con;  
vậy cha mẹ "không toàn trí toàn năng",  
vì sanh ra có những đứa con ngỗ nghịch với cha mẹ, thì vị thần ấy cũng  
"không toàn trí toàn năng" vì tạo ra loài người  
mà có những kẻ oán trách lại vị Thần ấy, và giữa loài người, không biết bao nhiêu  
những điều bất bình đẳng. 

2. Cha mẹ sanh ra con, đến khi già phải chết "không phải thường còn"; vậy vị Thần ấy đã  
sanh ra loài người, thì vị thần ấy cũng phải chết, "không thường còn". 

3. Cha mẹ sanh ra con, tất nhiên phải có ông, bà sanh lại cha mẹ, nên cha mẹ không phải  
"độc tôn". Vậy thì vị Thần ấy đã tạo ra loài người, thì vị thần ấy cũng phải có một vị thần  
lớn hơn sanh ra, nên vị thần ấy cũng không "độc tôn". 

Bởi thế nên cái Nhơn này bị lỗi mâu thuẩn với ý hứa (ẩn ý) của danh từ sau là "người tạo ra". 

3. Hữu pháp tự tưởng tương vi Nhơn._ cái Nhơn mâu thuẩn với lời nói trắng (tự tướng)  
về danh từ trước của Tôn 

Tôn : Phải có một ông Vô hình, tạo ra Vũ trụ 

Như lập Nhơn :Vĩ Vũ trụ có trật tự ấy 

Đồng dụ: Như ông Kiến trúc sư làm nhà. 

Cái Nhơn "Vì vũ trụ có trật tự" này, rất trái ngược với danh từ trước của Tôn là  
"Ông Vô hình". Đã Vô hình thì  
làm sao tạo ra Vũ trụ là vật hữu hình và có trật tự được? Phải vật hữu hình mới tạo ra  
vật hữu hình. Như ông  
kiến trúc sư, vì hữu hình mới tạo ra cái nhà hữu hình được. 

4. Hữu pháp sai biệt tương vi nhơn._ Cái Nhơn trái ngược với ý hứa (ẩn ý) về danh từ  
trước của Tôn. 

Tôn : Phải có một đấng sanh ra vũ trụ 

Như lập Nhơn : Vì vũ trụ có thứ tự vậy. 

Đồng dụ:Như ông thợ làm nhà. 

Người lập lượng này, nếu nói trắng ra "Có một ông thần", thì sợ bên đối phương không  
công nhận, mà phải bị lỗi  
"Sở biệt bất thành", nên họ chỉ nói một cách hồn hàm là "Có một Đấng".song ẩn ý của họ  
muốn nói  
"Đấng ấy là một vị thần"; và họ cho vị Thần này có 3 đức tánh: 1. Thường còn, 2. Cao cả,  
3. Sanh vạn vật. 

Nhưng Đấng ấy đã sanh ra ợ?c van vật, thì Đấng ấy tất nhiên cũng phải bị người khác  
lớn hơn sanh ra và chết; không phải cao cả và thườnhg còn. Cũng như ông thợ làm nhà. 

Vì cái Nhơn này, trái ngược với ần ý của danh từ trước, nên bị lỗi "tương vị".  
Ngoại nhơn có thể lập lượng bác lại rằng: 

Tôn: Đấng ấy phải bị người khác sanh ra và phải chết. 

Như lập Nhơn : Vì Đấng ấy sanh ra vũ trụ vậy. 

Đồng dụ: Như ông thợ làm nhà. 

14 lỗi về Tợ Nhơn, chúng tôi đã giải thích rồi, sau đây sẽ nói 10 lỗi về Tợ dụ.  
 

PHỤ BÀI ÔN HỌC  
(ÔN LẠI 14 LỖI VỀ TỢ NHƠN)

 

Quí vị nên xét kỹ các lượng sau này, rồi chỉ ra: lỗi của Tôn, lỗi của Nhơn, và nói rõ tại sao 

Lượng thứ I  
Tôn: Nhơn loại quyết định có người tạo  
Nhơn : Vì có trí khôn và đủ cả mắt, tai v.v...  
Đồng dụ : Như con, phài có cha mẹ sanh ra. 

Lượng thứ II  
Tôn: Gió thường còn  
 Nhơn : Vì có động vậy  
Đồng dụ : Như hư không  
Dị dụ: Như sóng 

Lượng thứ III  
Tôn: Phải có một Đấng sanh ra vũ trụ  
Nhơn : Vì vũ trụ có trật tự vậy  
Đồng dụ : Như ông Kiến trúc sư làm nhà 

Lượng thứ IV  
Tôn: Phải có một ông vô hình tạo ra vũ trụ  
Nhơn : Vì vũ trụ có trật tự vậy  
Đồng dụ : Như ông thọ làm nhà. 

*** 

C. DỤ

Phàm lấy một vật gì mà bên đối phương đã biết và đã công nhận, để so sánh chúng minh  
với một vật khá mà bên đối phương kia chưa biết, hoặc chưa công nhận thì gọi là "Dụ". 

Thí dụ khi lập cái "Tôn thường còn", thì phải lấy tất cả những vật "thường còn", làm Đồng dụ;  

trái lại, phải lấy tất cả những vật "vô thường" làm Dị dụ.  

Xem mục lục