Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (36)


Xem mục lục

Bấy giờ ở trong đại chúng, Đế Thích thưa với Phật rằng: “Thưa Thế Tôn, tuy con theo Phật và ngài Văn Thù Sư Lợi nghe hàng trăm ngàn kinh điển nhưng chưa hề nghe một giáo pháp nào kỳ diệu như kinh điển về tự tại thần thông, thật tướng quyết định không thể nghĩ bàn này (Thurman, kinh điển dạy sự nhập vào phương pháp những chuyển hóa không thể nghĩ bàn). Theo chỗ con hiểu nghĩa thú mà Phật đã nói, nếu có chúng sanh nào nghe được Giáo pháp này, tin hiểu, thọ trì, đọc tụng thì chắc chắn được Pháp này không nghi ngờ gì, huống chi như lời kinh mà tu hành. Người như vậy thì đóng bít các nẻo ác, mở các cửa thiện, thường được chư Phật hộ niệm, hàng phục ngoại đạo, trừ diệt ma oán, tu chỉnh theo Bồ đề, ở yên nơi đạo tràng, dẫm bước theo dấu chân của Như Lai. 

“Thưa Thế Tôn, nếu có người thọ trì, đọc tụng, như lời kinh mà tu hành, con sẽ cùng các quyến thuộc cúng dường, phụng sự. Bất cứ xóm làng, thành thị, núi rừng, đồng nội, chỗ nào có kinh này, con sẽ cùng các quyến thuộc đến chỗ đó để nghe nhận pháp. Những ai chưa tin, con sẽ làm cho họ tin; những ai tin rồi, con sẽ ủng hộ cho họ.” 

Phật nói: “Tốt lắm! Thiên Đế! Như ông nói đó, ta tùy hỷ với ông. Kinh này nói rộng về Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không thể nghĩ bàn của chư Phật quá khứ vị lai và hiện tại. Thế nên, Thiên Đế, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào thọ trì, đọc tụng, cúng dường kinh này, tức là cúng dường chư Phật của ba thời. 

“Thiên Đế, giả sử chư Phật đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới, như mía, tre, lau, lúa, mè, rừng, rú. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào, hoặc một kiếp hoặc không đến một kiếp, cung kính, tôn trọng, tán thán, cúng dường, phụng sự cho sự an ổn của các ngài. Khi các đức Phật ấy diệt độ, đem toàn thân xá lợi của mỗi ngài mà xây tháp bảy báu ngang rộng bằng bốn châu thiên hạ, cao đến trời Phạm thiên, phía ngoài và trên mặt đất trang nghiêm. Dùng tất cả hoa, hương, vòng hoa, tràng phan, âm nhạc vi diệu đệ nhất mà cúng dường hoặc một kiếp hoặc không đến một kiếp. Thiên Đế, ý ông thế nào, người ấy gieo trồng phước đức như vậy nhiều không?” 

Đế Thích thưa: “Nhiều lắm, thưa Thế Tôn. Phước đức của người ấy dù nói cả trăm ngàn ức kiếp cũng không hết.” 

Phật bảo Thiên Đế: “Phải biết thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe được kinh điển về giải thoát không thể nghĩ bàn này, tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, tu hành, thì phước đức nhiều hơn người kia. Tại sao như vậy? Giác ngộ (Bồ Đề) của chư Phật đều từ đây mà sanh; giác ngộ thì không có hạn lượng do đó phước đức ấy cũng vô hạn.”

Phẩm này nói về sự cúng dường Pháp. Chữ “cúng dường Pháp”, Thurman dịch là “Dharma worship”, tôn thờ Pháp, thờ phụng Pháp.

Đức Phật nói: “Thế nên, Thiên Đế, nếu có thiện nam tử, thiên nữ nhân nào thọ trì, đọc tụng, cúng dường Kinh này, tức là cúng dường chư Phật của ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai.”

Trong đoạn kinh mở đầu này, chúng ta thấy chữ pháp được nói đến nhiều lần. “Nếu có chúng sanh nào nghe được giáo pháp này, tin hiểu, thọ trì, đọc tụng thì chắc chắn được Pháp này không nghi ngờ gì”. Pháp này là cái gì? Pháp đó là “thật tướng quyết định không thể nghĩ bàn”, hay pháp tánh, pháp tướng, pháp thân, Phật tánh... tùy theo chỗ mà đặt tên.

Hoàn toàn chứng ngộ được pháp tánh ấy là giác ngộ. Và bởi vì giác ngộ thì không có hạn lượng nên phước đức của người tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, tu hành kinh điển nói về pháp tánh giải thoát không thể nghĩ bàn này cũng vô hạn.

Phật bảo Thiên Đế: “Thời quá khứ vô lượng a tăng kỳ kiếp, bây giờ ở đời có Phật hiệu là Dược Vương, bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Thế giới tên là Đại Trang Nghiêm, kiếp tên là Trang Nghiêm. Phật sống lâu hai mươi tiểu kiếp. Tăng Thanh Văn có ba mươi sáu ức na do tha. Tăng Bồ tát có mười hai ức.

“Thiên Đế, bấy giờ có vị chuyển luân thánh vương tên là Bảo Cái, đầy đủ bảy báu, cai trị bốn châu thiên hạ. Vua có một ngàn người con đoan chánh, mạnh mẽ, có thể chế phục các kẻ thù địch. Khi ấy Luân vương Bảo Cái cùng quyến thuộc cúng dường Dược Vương Như Lai, dâng cúng các đồ cần dùng đến hết năm kiếp. Qua năm kiếp rồi, vua bảo với một ngàn người con rằng: Các con hãy như ta đem thâm tâm mà cúng dường Phật.

“Khi đó ngàn người con vâng theo mạng lịnh của vua cha, cúng dường Dược Vương Như Lai tất cả đồ cần dùng đủ hết năm kiếp. Có một người con của vua tên là Nguyệt Cái, ngồi một mình suy nghĩ: Có sự cúng dường nào vượt hơn sự cúng dường này chăng? 

“Do thần lực Phật Dược Vương, ở giữa không trung, có vị trời nói rằng: Thiện nam tử, cúng dường Pháp là tối thượng trong các sự cúng dường. 

“Nguyệt Cái liền hỏi: Cúng dường Pháp là gì? “Vị trời đáp: Vương tử hãy đến hỏi Dược Vương Như Lai, ngài sẽ nói đầy đủ cho vương tử cúng dường Pháp là thế nào. 

“Vương tử Nguyệt Cái liền đến Dược Vương Như Lai, đảnh lễ dưới chân Phật, đứng qua một bên, rồi thưa Phật rằng: Thưa Thế Tôn, trong các sự cúng dường, cúng dường Pháp là hơn hết. Thế nào là cúng dường Pháp? 

“Phật dạy: Thiện nam tử! Cúng dường Pháp là kinh pháp sâu xa của chư Phật nói ra, tất cả thế gian khó tin khó nhận, vi diệu khó thấy, thanh tịnh không nhiễm, không phải lấy suy nghĩ phân biệt mà có thể được. Kinh pháp ấy được gom lại trong kho tàng pháp của Bồ tát, được ấn tổng trì đóng dấu, đến chỗ bất thối chuyển, thành tựu sáu ba la mật, khéo phân biệt nghĩa, thuận pháp Bồ đề, đứng trên các kinh. 

“Kinh pháp này làm cho nhập vào đại từ bi, lìa các sự ma và các tà kiến, thuận theo pháp duyên khởi, không có ngã, không có nhân, không có chúng sanh, không có thọ mạng, Không, Vô tướng, Vô tác, Vô khởi. Làm cho chúng sanh ngồi đạo tràng mà chuyển pháp luân. Được chư thiên, long, thần, càn thát bà đều tán thán khen ngợi. Khiến cho chúng sanh nhập vào kho tàng Phật pháp, thống nhiếp tất cả trí huệ của chư hiền thánh, nói rõ con đường tu hành của Bồ tát. Y nơi nghĩa thật tướng của các pháp. Nói rõ Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã, Tịch diệt. Có thể cứu tất cả chúng sanh phá giới, khiến cho các ma, ngoại đạo và những người tham trước phải sợ hãi, còn chư Phật, hiền thánh đều tán dương. Nó ngược với khổ của sanh tử, chỉ bày cái vui của Niết bàn. Là chỗ chư Phật mười phương trong ba thời đều nói. Nếu nghe những kinh như thế mà tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, dùng lực phương tiện phân biệt giảng nói, hiển bày rành rẽ, giữ gìn pháp đó, gọi là cúng dường Pháp.

“Dâng cúng các đồ cần dùng đến hết năm kiếp” không bằng cúng dường Pháp. Vì đồ cần dùng thì vô thường, Pháp thì thường hằng, đồ cần dùng thì có hạn, Pháp thì vô hạn.

Cúng dường Pháp trước hết là thấy “thật tướng của các pháp”, rồi “y nơi nghĩa thật tướng của các pháp” mà tu hành, làm Phật sự. Thật tướng ấy là pháp tánh, “khó tin khó nhận, vi diệu khó thấy, không phải lấy suy nghĩ phân biệt mà có thể được”. Thấy thật tướng ấy là sự hiện khởi của trí huệ, “khéo phân biệt nghĩa, thuận pháp Bồ đề”. Trí huệ đó là “thuận theo pháp duyên khởi, không có ngã, nhân, chúng sanh, thọ mạng” đi đến chỗ “Không, Vô tướng, Vô tác, Vô khởi”. Cùng với sự hiện khởi của trí huệ, là “làm cho nhập vào đại từ bi”. Cả hai cái, trí huệ thì đi đến chỗ Không, Vô tướng, Vô tác, Vô khởi (hay Vô sanh) và từ bi thì đi đến chỗ đại từ bi, khi ấy chúng sanh này “ngồi đạo tràng mà chuyển pháp luân”.

“Nếu nghe những kinh như thế”, nghĩa là nghe những kinh nói về pháp tánh, và đối với pháp tánh này “tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, dùng lực phương tiện phân biệt giảng nói, hiển bày rành rẽ, giữ gìn pháp đó, gọi là cúng dường Pháp”.

“Lại nữa, đối với mọi sự, hãy như pháp mà tu hành. Tùy thuận mười hai duyên khởi, lìa các tà kiến, đắc Vô sanh nhẫn, quyết định không có ngã, không có chúng sanh, nhưng với nhân duyên quả báo không trái nghịch, không tranh cãi, lìa hết thảy cái của ta. Y vào nghĩa, không y vào lời; y vào trí, không y vào thức; y vào kinh liễu nghĩa mà không y vào kinh không liễu nghĩa; y vào pháp, không y vào người. Tùy thuận pháp tướng, không có chỗ nhập, không có chỗ quy về. Vô minh rốt ráo diệt nên các hành cũng rốt ráo diệt, cho đến sanh rốt ráo diệt nên lão tử cũng rốt ráo diệt. Quán xét như vậy thì mười hai nhân duyên không có tướng tận cũng không có tướng khởi. Đó gọi là cúng dường Pháp một cách tối thượng.”

Sống toàn bộ cuộc đời mình theo Pháp, như Pháp, đó là cúng dường Pháp. Toàn bộ thân ngữ tâm của mình tương ưng với Pháp, đó là đem đời sống của mình cúng dường cho Pháp.

“Đối với mọi sự hãy như pháp mà tu hành” là y theo thật tướng bất sanh bất diệt của các pháp mà tu hành, đó gọi là xứng tánh tác Phật sự. Tu hành như vậy thì đi đến chỗ “quyết định”, xác quyết tánh Không trong toàn bộ đời sống của mình, “đắc Vô sanh nhẫn”, nhưng không làm trái nghịch với chân lý tương đối là nhân quả.

Khi đã thấy rõ pháp tánh Không rồi, bèn có thể y vào nghĩa, cái nghĩa hiện sờ sờ trước mặt, chứ không chạy theo lời nói cho rối trí, mê mờ. Nghĩa ấy là “mười hai nhân duyên không có tướng tận cũng không có tướng khởi”.

Khi đã biết bản tánh của toàn bộ tâm thức, người ấy chỉ y vào trí (tức là bản tánh của tâm thức) mà không y vào thức. Theo kinh Lăng Già, trí là cái không động, thức là cái có động. Nói cách khác, y vào trí không y vào thức là y vào tánh chứ không y vào tướng. Kinh liễu nghĩa là kinh nói về nghĩa rốt ráo, kinh không liễu nghĩa là kinh được nói theo lối thích ứng, phương tiện, vì thế người sơ cơ như chúng ta có thể bị hiểu lầm. Cuối cùng, y vào pháp mà không y vào người là y vào chân lý, vào cái thấy pháp tánh, vào nghĩa của pháp tánh, chứ không y vào danh tướng ở đời của người nói pháp. Người bề ngoài có thể chẳng có danh tiếng gì mà nói được pháp thì chúng ta cứ lấy cái tín hiểu của người đó mà bồi dưỡng cho chúng ta, bất kể người đó là ai.

“Tùy thuận pháp tánh” (hay pháp tướng) như vậy thì thông suốt tánh Không: “không có chỗ nhập, không có chỗ quy về”. Đến chỗ này, dùng cái thấy tánh Không thanh toán hết thập nhị nhân duyên: “vô minh rốt ráo diệt nên các hành cũng rốt ráo diệt, cho đến sanh rốt ráo diệt nên lão tử cũng rốt ráo diệt. Quán xét như vậy thì mười hai nhân duyên không có tướng tận cũng không có tướng khởi.” Đây là đắc Vô sanh pháp nhẫn, tức là cúng dường Pháp một cách tối thượng.

“Hãy như pháp mà tu hành”, chính sự tu hành mới làm cho chúng ta đi qua hết đoạn kinh này để đến chỗ “cúng dường Pháp một cách tối thượng”. Có thực hành, liên tục thực hành, thực hành đến đâu thì ý vị hay nghĩa của kinh hiện ra đến đấy, như vậy mới có thể nói được là biết “y vào”, mới có thể nói là “tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, phân biệt giảng nói, giữ gìn pháp đó”.

Phật bảo Thiên Đế: “Vương tử Nguyệt Cái từ Phật Dược Vương nghe pháp này thì đắc Nhu thuận nhẫn, liền cởi áo khoác quý báu và đồ trang sức mà cúng dường Phật, rồi thưa với Phật rằng: Thưa Thế Tôn, sau khi Ngài nhập diệt con sẽ thật hành pháp cúng dường, giữ gìn chánh pháp. Nguyện Thế Tôn dùng oai thần thương tưởng giúp con an lập, khiến con hàng phục ma oán, tu hạnh Bồ tát và hội nhập Phật pháp vào trong mọi cuộc đời của con.

“Dược Vương Như Lai biết quyết định sâu xa (thâm tâm) của vương tử, mà thọ ký rằng, “Về đời sau ông sẽ là người giữ gìn thành trì của pháp.” 

“Thiên Đế, lúc ấy vương tử Nguyệt Cái thấy pháp thanh tịnh (kiến đạo vị), nghe Phật thọ ký, đem lòng tin mà xuất gia, tu tập thiện pháp. Tinh tấn không bao lâu, được năm thần thông, đầy đủ Bồ tát đạo, được tổng trì, biện tài không dứt. Sau khi Phật Dược Vương nhập diệt, vương tử sử dụng thần thông, tổng trì, biện tài phân bố trong mười tiểu kiếp pháp luân Dược Vương Như Lai đã chuyển. Tỳ kheo Nguyệt Cái vì giữ gìn pháp, siêng hành tinh tấn, ngay đời đó hóa độ được trăm vạn ức người an lập trong bất thối chuyển với Vô thượng Bồ đề, làm cho mười bốn na do tha người phát khởi sâu xa tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật, vô lượng chúng sanh được sanh về cõi trời.

“Thiên Đế, vua Bảo Cái lúc ấy đâu phải người nào khác mà nay đã thành Phật hiệu là Bảo Diệm Như Lai, còn một ngàn người con của vua là một ngàn vị Phật trong đời Hiền kiếp, mà đức Ca La Cưu Tôn Đà là vị thành Phật trước tiên, vị Phật sau chót là đức Lâu Chí, Còn tỳ kheo Nguyệt Cái chính là bản thân ta. 

“Như thế Thiên Đế! Phải biết điều cốt yếu này: trong mọi sự cúng dường, cúng dường Pháp là tối thượng, bậc nhất không gì sánh bằng. Thế nên, Thiên Đế, hãy dùng cúng dường Pháp mà cúng dường chư Phật.”

Theo kinh Nhân VươngHộ Quốc Bát Nhã Ba La Mật Đa, có năm cấp độ nhẫn để thâm nhập tánh Không: phục nhẫn, tín nhẫn, thuận nhẫn, vô sanh nhẫn và tịch diệt nhẫn. Nhu thuận nhẫn là Đệ tứ Diệm Huệ Địa, Đệ ngũ Nan Thắng Địa và Đệ lục Hiện Tiền Địa. Sau đó là Vô sanh nhẫn gồm Đệ thất, Đệ bát và Đệ cửu địa.

Ở đây chúng ta học được quá trình thành Phật của vương tử Nguyệt Cái. Ban đầu kết duyên với Phật pháp bằng sự cúng dường Dược Vương Như Lai, vừa đi theo vua cha cúng dường vừa vâng theo mạng lịnh của vua cha mà tự mình cúng dường, tất cả được mười tiểu kiếp. Đó là con đường tích tập bao gồm thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng (phục nhẫn hay tư lương vị). Đó chỉ mới là sự làm quen với pháp nhưng chưa thực sự biết Pháp là cái gì, nên “ngồi một mình suy nghĩ: Có sự cúng dường nào vượt hơn sự cúng dường này chăng?” Khi ấy nghe “vị trời nói rằng: Cúng dường Pháp là tối thượng trong các sự cúng dường”. Sau khi đến nghe Dược Vương Như Lai giảng về cúng dường Pháp, vương tử Nguyệt Cái liền đắc pháp, liền thấy pháp thanh tịnh. Đó là con đường thấy (kiến đạo vị), bước vào Sơ địa (vào Tín nhẫn), tức là lần đầu thật sự thấy được Pháp, Pháp tánh, Pháp thân. Khi đã thấy được Pháp, trở thành Bồ tát Pháp thân, vương tử Nguyệt Cái phát nguyện: “Nguyện Thế Tôn dùng oai thần thương tưởng giúp con an lập, khiến con hàng phục ma oán, tu hạnh Bồ tát và hội nhập Phật pháp vào trong mọi cuộc đời của con.”

Ngay trong thời thuyết pháp, vương tử Nguyệt Cái đã đắc Nhu thuận nhẫn, tức là đệ tứ, đệ ngũ và đệ lục địa của con đường thiền định (tu tập vị). Khi thâu đạt Pháp thân như vậy bèn được “Phật thọ ký, và đem lòng tin mà xuất gia, tu tập thiện pháp, tinh tấn không bao lâu thì được đầy đủ Bồ tát đạo”, tức là con đường tu tập (hay con đường thiền định) mà lên ít nhất là Đệ bát địa Vô sanh pháp nhẫn. “Ngay trong đời đó, hóa độ được nhiều người đắc bất thối chuyển, phát khởi tâm xuất ly, hay sanh về cõi trời.”

Tỳ kheo Nguyệt Cái ấy bây giờ chính là đức Phật Thích Ca đang thuyết kinh này, tức là từ đó cho đến nay tỳ kheo Nguyệt Cái đã đi hết con đường tu hành để thành Phật. Tất cả đều y vào cúng dường Pháp, tức là “hội nhập Phật pháp, hay pháp tánh, Phật tánh, vào trong mọi cuộc đời của con”. Mọi cuộc đời tu hạnh Bồ tát ấy khởi từ một lời nguyện, lời nguyện ấy nương vào sự hộ trì của Phật để triển khai hạnh Bồ tát. Hơn nữa lời nguyện ấy là một quyết định sâu xa (thâm tâm): quyết định sâu xa vì y vào pháp tánh nay đã được thấy và y vào lòng bi đối với tất cả chúng sanh. Do quyết định sâu xa hay Bồ đề tâm (gồm cả Bồ đề tâm nguyện và Bồ đề tâm hạnh) này, Dược Vương Như Lai bèn thọ ký cho vương tử Nguyệt Cái. Thọ ký vì từ nay vương tử có làm gì cũng không ra ngoài Pháp, và khi làm gì cũng không ra ngoài Pháp thì chắc chắn sẽ thành Phật.

Tóm lại, cúng dường Pháp là “giữ gìn Pháp, siêng hành tinh tấn”, cho mình và cho người.

Xem mục lục