Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (36)


Xem mục lục

Kinh Văn:

Hán Văn: Thế Tôn thành Đạo dĩ, tác thị tư duy: "Ly dục tịch tịnh, thị tối vi thắng!" Trụ đại Thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc-dã uyển trung, chuyển Tứ-Đế-Pháp-Luân, độ Kiều-Trần-Như đẳng ngũ nhân, nhi chứng Đạo quả. Phục hữu Tỳ-khưu sở thuyết chư nghi, cầu Phật tiến chỉ. Thế-Tôn giáo sắc, nhất nhất khai ngộ, hiệp chưởng kính nặc, nhi thuận Tôn-sắc.

Dịch Nghĩa: Sau khi Đức Thế-Tôn thành Đạo, Ngài suy nghĩ rằng: "Xa lìa dục vọng, được sự tịch tịnh, là thù-thắng nhất!" Rồi Ngài trụ trong Đại Thiền-định mà hàng phục ma đạo. Tại vườn Lộc-dã, Ngài chuyển Pháp-luân Tứ Đế, độ nhóm năm người của Tôn giả Kiều-Trần-Như đều chứng được Đạo quả. Lại có thầy Tỳ-khưu bày tỏ các chỗ còn nghi ngờ, cầu Phật dạy bảo sự tiến chỉ. Đức Thế-Tôn ban giáo sắc khiến ai nấy đều được khai ngộ. Các ngài cung kính chắp tay vâng lời, tuân thuận sự chỉ dạy của Đức Thế-Tôn.

Lược giảng:

Sau khi Đức Thế-Tôn thành Đạo... "Thế-Tôn" là một trong mười danh hiệu của Phật; và ở đây, Đức Thế-Tôn chính là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Khi Đức Phật ngồi dưới cội cây Bồ-đề và nhân trông thấy vì sao sáng trong đêm tối mà ngộ đạo rồi, Ngài suy nghĩ rằng: "Xa lìa dục vọng, được sự tịch tịnh là thù thắng nhất!" Đức Phật tự nghĩ "Ta nên độ ai trước? Ta nên làm việc gì trước?". "Xa lìa dục vọng" nghĩa là không còn dục niệm, không còn cái pháp nhiễm ô, nhơ bẩn. "Được sự tịch tịnh" nghĩa là trở nên trong sạch, không có sự tạo tác, lúc nào cũng ung dung tự tại, như như bất động. Đó là điều thù thắng nhất, không thể nghĩ bàn nhất!

Rồi Ngài trụ trong Đại Thiền-định mà hàng phục ma đạo. Ở trong Đại Thiền-định là một điều hết sức thù thắng. Trong lúc an trụ trong Đại Thiền-định, Đức Phật có thể khiến cho tất cả bè lũ ma vương và kẻ ngoại đạo đều phải chịu đầu hàng, quy phục.

Tại vườn Lộc-dã. Sau khi nghĩ và quán xét, Đức Phật thấy rằng nhóm năm người của Tôn giả Kiều-Trần-Như cần được độ trước nhất, nên Ngài bèn đến ngay vườn Lộc-dã để gặp họ và tại nơi này, Ngài chuyển Pháp-luân Tứ Đế. Tứ Đế tức là Khổ, Tập, Diệt và Đạo. Trong đó, Khổ là quả thế gian, Tập là nhân thế gian, Diệt là quả xuất thế gian, và Đạo là nhân xuất thế gian. Khổ, Tập, Diệt và Đạo được gọi là Pháp Tứ Đế.

Sau khi thành Phật, Đức Phật thuyết Kinh Hoa Nghiêm để độ các vị pháp thân Đại sĩ. Ngài nhận thấy rằng hạng phàm phu chưa thể lãnh hội được giáo pháp vĩ đại này; thật là:

Hữu nhãn bất kiến Lô-Xá-Na,

Hữu nhĩ bất văn Viên-Đốn Giáo.

(Có mắt mà chẳng thấy được Phật Xá-Na,

Có tai mà chẳng nghe được giáo pháp Viên-Đốn!)

Vì thế, Đức Phật phải tìm đến vườn Lộc-dã. Khu vườn ấy sở dĩ được gọi là vườn Lộc-dã hay vườn Nai là vì có hai con Nai chúa sinh sống và giáo hóa cả đàn nai tại đó. Khi giảng Kinh Lăng Nghiêm, tôi đã thuật lại công án này rất cặn kẽ; quý vị nào muốn biết rõ thêm thì có thể tìm xem trong bộ Kinh Lăng Nghiêm Lược Giảng.

Lúc bấy giờ, cả năm Tôn giả: Mã-Thắng (Ashvajit), Tiểu Hiền (Subhadra), Ma-Ha-Nam (Mahanama-kulika), Kiều-Trần-Như (Ajnata-kaundinya) và Thập-Lực-Ca-Diếp (Dashabala-kashyapa) đều đang tu hành tại vườn Lộc dã. Năm người này truớc kia đều ở chung với Phật và đều là bà con thân thích của Ngài. Ba Tôn giả Mã-Thắng, Tiểu-Hiền và Ma-Ha-Nam là bà con bên nội của Phật; còn hai ông Tôn giả Kiều-Trần-Như và Thập-Lực-Ca-Diếp là bà con bên ngoại và đều là cậu của Phật. Năm người này vốn do phụ thân của Phật phái đến để hầu hạ Phật. Nhưng về sau, Tôn giả Kiều-Trần-Như và Thập-Lực-Ca-Diếp vì không chịu nổi sự khổ hạnh nên bỏ đi trước. Kế đến, ba Tôn giả Mã-Thắng, Tiểu-Hiền và Ma-Ha-Nam do thấy Phật thọ nhận bát cháo cúng dường của thiên nữ, ngỡ rằng Phật không thể nào tu khổ hạnh được nữa, nên cũng bỏ đi. Và, tất cả đều đi đến vườn Lộc-dã. Do đó, sau khi thành Đạo, Đức Phật liền đi tìm năm ông thị giả này và độ họ trước nhất.

Sau khi Đức Phật thành Đạo và thuyết xong Kinh Hoa Nghiêm, Ngài quán sát tất cả những cơ duyên cần phải độ, những chúng sanh cần phải cứu vớt. Khi biết được rằng nhóm năm người của Tôn giả Kiều-Trần-Như cần phải cứu độ trước nhất, Ngài liền tới ngay vườn Lộc-dã để chuyển Pháp-luân Tứ Đế.

"Chuyển" tức là triển-chuyển nghĩa là xoay vần, lăn chuyển không ngớt.

"Tứ Đế" là Khổ, Tập, Diệt và Đạo.

"Pháp" là phương pháp, phép tắc.

"Luân" nghĩa là bánh xe. Bởi các Pháp do Đức Phật thuyết giảng đều là từ trong tâm tánh của Ngài tuôn trào ra, rồi lại luân lưu vào tâm khảm chúng sanh, khiến cho chúng sanh thức tỉnh mà lìa bỏ bến mê để quay về bến giác, cho nên gọi là "luân". Chữ "luân" còn bao hàm ý nghĩa "tồi phục" - "tồi phá" làm bể nát; và "phục" là hàng phục, làm cho kẻ khác phải chịu đầu hàng, vâng theo. Bánh xe có thể nghiến dập nát và cán vỡ vụn những thứ cứng rắn, ngay cả sự kiên cố của ngoại đạo và ma vương! Đó là ý nghĩa của chữ "luân".

Pháp Tứ Đế là giáo pháp đầu tiên mà Đức Phật thuyết giảng ở thế gian này. Pháp luân Tứ Đế được chuyển ba lần, gọi là Tam Chuyển Pháp-luân Tứ Đế:

1. Thị chuyển Pháp-luân Tứ Đế: Lần chuyển thứ nhất gọi là Thị chuyển. "Thị" nghĩa là chỉ thị, chỉ bảo cho mà biết; bởi vì chúng ta không hiểu nên Đức Phật phải chỉ dẫn, phải nói cho chúng ta hiểu. Thế nào gọi là Thị chuyển? Đó là chỉ rõ, cho biết về Pháp Tứ Đế. Thị chuyển còn được gọi là Sơ chuyển (lần chuyển đầu tiên), bởi Đức Phật vừa bắt đầu chuyển Pháp luân. Bấy giờ Đức Phật dạy:

Đây là Khổ, tánh bức bách;

Đây là Tập, tánh chiêu cảm;

Đây là Diệt, tánh khả chứng;

Đây là Đạo, tánh khả tu.

"Đây là Khổ, tánh bức bách." Bức bách như thế nào? Cái Khổ rất lợi hại, nó làm cho quý vị cảm thấy khổ sở, đau đớn đến nỗi thở không ra hơi. Aịp bức, đè ép, dày vò con người một cách ghê gớm chính là tánh cách bức bách của Khổ. Có bao nhiêu thứ khổ? Có Tam Khổ (Ba mối khổ), Bát Khổ (Tám mối khổ) và vô lượng vô biên nỗi khổ khác nữa.

Tam khổ là ba nỗi khổ: Khổ-khổ, Hoại-khổ, và Hành-khổ.

a) Khổ-khổ: Thế nào là Khổ-khổ? Khổ-khổ tức là nỗi khổ này chồng chất lên nỗi khổ khác, trong mối khổ nọ còn thêm vào mối khổ kia. Thứ khổ này thường xảy đến cho hạng người nào?

Như có những người hết sức nghèo túng - họ nghèo nàn, túng thiếu đến độ ăn thì ăn không đủ no, mà mặc cũng mặc không đủ ấm, nên phải vừa chịu đói lại vừa chịu lạnh. Tuy vậy, họ vẫn có được một mái nhà lụp xụp bằng gỗ, nên mặc dù thiếu ăn thiếu mặc, nhưng đêm đến họ còn có nơi có chỗ mà ngủ; như thế, thiết tưởng cũng không đến nỗi tệ lắm! Thế rồi, rủi ro có cơn giông bão thổi qua hoặc trận mưa to trút xuống làm nhà cửa sập đổ ngổn ngang, khiến họ không còn nơi trú ẩn nữa. Đã ăn chẳng được no, mặc chẳng được ấm, bây giờ lại lâm vào cảnh màn trời chiếu đất, chẳng chốn nương thân! Quý vị thử nghĩ xem, như thế có phải là khổ hay không chứ?

Hoặc có người tuy có được chỗ ở và cũng được đủ ăn, nhưng lại không có đủ áo quần mà mặc; thì đó cũng là một cảnh ngộ của nỗi khổ này xen lẫn trong nỗi khổ khác. Hoặc là mặc dù có đủ áo quần đắp đổi và có chỗ ở hẳn hoi, song lại không có cơm ăn; thì đó cũng là một trong những tình cảnh của cái khổ nọ chồng chất lên cái khổ kia vậy!

Những trường hợp ấy cũng gọi là "bần cùng khốn khổ", nỗi khổ do sự nghèo nàn, túng quẫn gây ra. Nỗi khốn khổ vì bần cùng này thì không dễ gì mà chịu được, bởi nó bức bách, hành hạ con người một cách rất đáng sợ!

b) Hoại-khổ: Như vậy, kẻ giàu sang phú quý thì không khổ sao? Có chứ! Kẻ giàu sang thì phải chịu đựng Hoại-khổ, cái khổ vì sự suy tàn, lụn bại.

Như có người rất giàu sang, lắm bạc nhiều tiền, bị bọn cướp bắt cóc. Bọn chúng dò xét xem sản nghiệp của người ấy giá trị khoảng bao nhiêu - giả sử tài sản của người ấy ước chừng năm triệu đồng, thì chúng sẽ đòi tiền chuộc mạng là sáu triệu đồng. Như vậy, người ấy phải vay thêm một triệu đồng nữa mới đủ số mà dâng nạp cho bọn tống tiền để được thoát thân. Thế thì, đó không phải là sự phú quý đang bị hủy hoại, sụp đổ hay sao? Cho nên, đó gọi là "phú quý hoại khổ", nỗi đau khổ, xót xa vì sự suy sụp, tàn lụn của cảnh giàu sang!

c) Hành-khổ: Quý vị có thể không phải chịu đựng nỗi bần cùng khốn khổ và cũng không phải đương đầu với phú quý hoại khổ; thế nhưng, quý vị vẫn phải trải qua tiến trình của đời người - sanh ra rồi lớn lên, lớn lên rồi già đi, già rồi thì ắt chết, niệm niệm biến đổi, tưởng nghĩ liên tục, mải miết không ngừng. Đó gọi là Hành-khổ - nỗi khổ đau, dằn vặt bởi vì sự biến chuyển.

Đó là nói về Tam Khổ. Còn về Bát khổ, tức là tám nỗi khổ, thì gồm có:

Sanh khổ (nỗi khổ của sự sanh ra đời);

Lão khổ (nỗi khổ của sự già nua);

Bệnh khổ (nỗi khổ của đau ốm, bệnh tật);

Tử khổ (nỗi khổ của sự chết);

Ái biệt ly khổ (nỗi khổ vì phải xa lìa những gì mà mình yêu thích);

Oán tắng hội khổ (nỗi khổ vì phải gần gũi với những gì mà mình chán ghét)

Cầu bất đắc khổ (nỗi khổ do mong cầu mà không được toại ý);

Ngũ ấm xí thạnh khổ (nỗi khổ vì năm ấm1 hưng thạnh, thiêu đốt tâm thần.)

Vì ngoài các mối khổ này ra vẫn còn có vô số mối khổ khác nữa, nên Đức Phật dạy: "Đây là Khổ, tánh bức bách."

"Đây là Tập, tánh chiêu cảm." "Tập" ở đây tức là tập trung, tích lũy phiền não. Tích tập phiền não là một loại có tánh chiêu cảm. Một khi trong lòng chúng ta có phiền não, thì phiền não ở bên ngoài sẽ lũ lược kéo tới; và nếu thâm tâm quý vị chất chứa tham, sân, si, thì những chuyện không ưng ý từ bên ngoài sẽ đổ xô lại. Do đó, Đức Phật dạy: "Đây là Tập, tánh chiêu cảm."

"Đây là Diệt, tánh khả chứng." Diệt là tịch diệt. Tịch diệt (quietude) đem đến an lạc. Sự an lạc này mỗi chúng ta đều có thể chứng nghiệm được, bởi vì tánh nó là "khả chứng".

"Đây là Đạo, tánh khả tu." Ở đây, "Đạo" tức là Giới-đạo, Định-đạo và Huệ-đạo. Nói một cách chi tiết hơn, thì "Đạo" là Ba Mươi Bảy Phẩm Đạo, và đó là: Thất Bồ Đề, Bát Chánh Đạo, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, và Tứ Như Ý Túc. "Đạo" vốn tánh khả tu, nghĩa là quý vị đều có thể tu Đạo!

Trên đây là lần chuyển Pháp-luân Tứ Đế đầu tiên, và được gọi là Sơ-chuyển hay Thị-chuyển.

2. Khuyến-chuyển Pháp-luân Tứ Đế: Lần chuyển Pháp-luân Tứ Đế thứ nhì gọi là Khuyến-chuyển Pháp-luân Tứ Đế. Đức Phật dạy:

"Đây là Khổ, ông nên biết;

Đây là Tập, ông nên dứt;

Đây là Diệt, ông nên chứng;

Đây là Đạo, ông nên tu."

Đó là Khuyến-chuyển. Đức Phật khuyên nhủ, khuyến khích mọi người tu học Pháp Tứ Đế. Lần chuyển Pháp-luân Tứ Đế này được gọi là Khuyến-chuyển.

3. Chứng-chuyển Pháp-luân Tứ Đế:

"Đây là Khổ, Ta đã biết;

Đây là Tập, Ta đã dứt;

Đây là Diệt, Ta đã chứng;

Đây là Đạo, Ta đã tu."

Lần chuyển Pháp-luân Tứ Đế thứ ba Chứng-chuyển Pháp-luân Tứ Đế. Đức Phật dạy: "Ta không những chỉ dạy các ông nên nhận biết Khổ, dứt trừ Tập, mến chuộng Diệt và tu học Đạo, mà còn cho các ông biết rằng: "Đây là khổ, Ta đã biết. Đây là Tập, Ta đã dứt." Tập chính là phiền não và Ta đã cắt đứt phiền não rồi. Không phải là Ta bảo các ông dứt trừ phiền não còn riêng Ta thì khỏi phải đoạn tuyệt chúng đâu. Ta nay cảm thấy rất tự tại, thanh thản là nhờ đã dứt bỏ mọi phiền não. Cho nên, Ta khuyên các ông hãy dứt trừ phiền não và nhận thức cái khổ do phiền não mang lại. Đây là Diệt, Ta đã chứng. Ta đã chứng đắc trạng thái an lạc của sự tịch diệt rồi. Do đó, bây giờ Ta nói cho các ông biết là các ông cũng cần phải đạt được sự an lạc của cảnh giới tịch diệt. Đây là Đạo, Ta đã tu. Ta đã hoàn tất việc tu Đạo rồi, và Ta không cần phải tu thêm nữa. Giờ đây, Ta mong rằng tất cả các ông đều có thể nhận biết Khổ, dứt trừ Tập, mến chuộng Diệt và tu học Đạo."

Độ nhóm năm người của Tôn-giả Kiều-Trần-Như đều chứng được Đạo quả. Trong thời kỳ Tam chuyển Pháp-luân Tứ Đế, Tôn-giả Kiều-Trần-Như (A-Nhã Kiều-Trần-Như) vừa nghe được giáo pháp do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng là lập tức khai ngộ, chứng Thánh quả; do đó, Ngài được gọi là Giải-Bổn-Tế (hiểu rõ chỗ gốc) hay Tối-Sơ-Giải (hiểu trước nhất). Vì sao Tôn-giả Kiều-Trần-Như lại được khai ngộ trước tiên?

Trong thời quá khứ, khi Đức Phật Thích Ca còn ở nhân địa và là một tiên nhân tu hạnh nhẫn nhục, Ngài bị vua Ca Lợi chặt đứt cả hai tay và hai chân rồi hỏi rằng: "Tiên nhân có oán hận ta chăng?" Bấy giờ, Tiên Nhẫn nhục đáp: "Không oán hận!" Vua Ca Lợi gạn hỏi: "Vậy có gì có thể chứng minh là tiên nhân thực sự không sân hận?" Tiên Nhẫn nhục bèn lập nguyện: "Nếu tôi có lòng oán hận nhà vua, thì hai chân và hai tay này sẽ không bao giờ liền lại như xưa được nữa. Còn nếu tôi quả thật chẳng mảy may oán hận, thì những tay chân đã bị nhà vua chặt đứt sẽ mọc lại nguyên vẹn như trước!" Tiên nhân vừa dứt lời thì tứ chi liền mọc ra trở lại. Sau đó, Tiên Nhẫn nhục phát nguyện: "Nguyện rằng khi tôi thành Phật, tôi sẽ độ nhà vua trước nhất, bởi vì nhà vua đích thực là Thiện-tri-thức của tôi!"

Trong kiếp quá khứ ấy, Tôn giả Kiều-Trần-Như là vua Ca Lợi, còn vị Tiên Nhẫn nhục thuở đó nay là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Vì thế mà sau khi thành Phật, Đức Phật ngẫm nghĩ: "Ta nên độ ai trước bây giờ? À, phải rồi! Ta cần phải độ kẻ đã chặt đứt tay chân Ta thuở nọ trước nhất!" Và, khi Đức Phật đến thuyết pháp cho Tôn giả Kiều-Trần-Như nghe thì Tôn giả liền khai ngộ.

Tiếp đến, Đức Phật giảng về trì Giới, bố thí như thế nào, làm sao để giữ Giới - và làm thế nào để được sanh lên cõi trời. Ngài mạnh mẽ bài bác dục-vọng: "Có dục niệm là không đúng, là không trong sạch. Phải trừ bỏ dục vọng thì mới được thanh tịnh, và mới có thể đạt được sự an vui chân chánh!" Ngay lúc đó, cả hai Tôn giả A-Bệ-Bà (tức Tỳ-khưu Mã-Thắng) và Bạt-Đề (tức Ngài Tiểu-Hiền) đều khai ngộ. Đây là đợt khai ngộ thứ nhì.

Rồi Đức Phật lại thuyết giảng vô số pháp môn khác, và khi ấy, hai Tôn giả Câu-Lợi (tức Ngài Ma-Ha-Nam) và Thập-Lực-Ca-Diếp cũng đều khai ngộ. Đó là đợt thứ ba.

Như vậy, năm Tôn giả này là những người đầu tiên xuất gia làm Tỳ-khưu, đồng thời cũng là những người khai ngộ và chứng được Tứ quả A-la-hán trước nhất. Vì thế, trong kinh chép là: "Độ nhóm năm người của Tôn giả Kiều-Trần-Như đều chứng được Đạo quả."

Lại có thầy Tỳ-khưu bày tỏ các chỗ còn nghi ngờ. Sau đó, có nhiều thầy Tỳ-khưu khác hướng về Phật mà thỉnh Pháp, xin hỏi Phật về những chỗ nghi nan, khúc mắc và những đạo lý mà họ chưa hiểu rõ, và cầu Phật dạy bảo sự tiến chỉ. Các thầy Tỳ-khưu xin Phật quyết định giùm, xem trong việc hành trì đó họ nên tiến tới hay nên dừng lại. Họ thỉnh cầu Phật ban cho họ một sự quyết định.

Đức Thế Tôn ban giáo sắc. Đức Thế Tôn tức là Đức Phật, "Giáo" là giáo hóa, và "Sắc" là sắc lệnh. Đức Phật ban hành mệnh lệnh để dạy bảo cảm hóa họ.

Khiến ai nấy đều được khai ngộ. Đức Phật khai thị và giáo hóa họ, nên thầy Tỳ-khưu nào cũng khai ngộ cả. Sau đó, các ngài cung kính chắp tay vâng lời, tuân thuận sự chỉ dạy của Đức Thế Tôn. Ai nấy đều chắp tay lại, kính cẩn vâng theo lời dạy của Đức Thế Tôn và tùy thuận theo những đạo lý do Ngài chỉ dạy mà tu hành.

Vì cứ đinh ninh rằng mọi người đều hiểu rõ ý nghĩa của từ ngữ "Tỳ-khưu" rồi, nên tôi đã bỏ qua, không giải thích. Tôi cũng không ngờ là có người vẫn còn chưa hiểu lắm.

"Tỳ-khưu" (Bikshu) vốn là tiếng Phạn, và có ba nghĩa: Phá-ác, Bố-ma, và Khất-sĩ. Vì bao hàm tới ba nghĩa, cho nên nếu dịch "Tỳ-khưu" là Khất-sĩ thì thiếu mất nghĩa Phá-ác và Bố-ma; mà nếu dịch là Phá-ác thì lại thiếu mất nghĩa Bố-ma và Khất-sĩ. Như vậy, từ ngữ "Tỳ-khưu" thuộc loại chứa đựng nhiều nghĩa và do đó không cần dịch ra. Đây là một trong năm loại từ ngữ không nên phiên dịch.

Có năm loại từ ngữ mà khi phiên dịch kinh điển chúng ta không nên dịch ra đó là:

1. Đa hàm bất phiên (từ ngữ nào bao hàm nhiều nghĩa thì không nên dịch):

2. Tôn trọng bất phiên (từ ngữ nào được dùng vì sự tôn trọng thì không nên dịch);

3. Thử phương vô bất phiên (những từ ngữ chỉ các thứ mà nơi này không có thì không nên dịch);

4. Thuận cổ bất phiên (những từ ngữ được dùng là do tùy thuận theo lề lối xưa thì không nên dịch);

5. Bí mật bất phiên (từ ngữ nào chứa đựng các ý nghĩa bí mật thì không nên dịch).

Vậy, do có ba nghĩa nên từ ngữ "Tỳ-khưu" được giữ nguyên theo âm tiếng Phạn (Bhikshu) và không dịch ra. Ba nghĩa của từ ngữ "Tỳ-khưu" là:

1. Phá-ác. Chúng ta có phiền não, đó là ác. Tỳ-khưu là người phá hủy cái ác.

2. Khất-sĩ (người đi xin). Tỳ-khưu là người:

Thượng khất Pháp ư chư Phật,

Hạ khất thực ư chúng sanh.

(Trên, xin Pháp của chư Phật,

Dưới, xin cơm của chúng sanh.)

Thầy Tỳ-khưu xin Pháp của chư Phật để làm tăng trưởng huệ-mạng của mình, và xin thức ăn của chúng sanh là để giúp chúng sanh trồng ruộng phước.

3. Bố-ma. Khi giới-tử lên giới đàn để thọ Giới Tỳ-khưu, thì vị Hòa thượng Đắc-giới hỏi: "Ngươi có phải là bậc đại-trượng phu không?" Giới tử dõng dạc đáp: "Vâng, con là một đại-trượng phu!" Câu trả lời ấy khiến cho hết thảy thiên ma ngoại đạo đều sợ hãi; cho nên Tỳ-khưu được gọi là người làm cho chúng ma khiếp sợ.

Khi xuất gia làm Sa-di thì phải biết ý nghĩa của từ ngữ Sa-di và Tỳ-khưu. Sau khi xuất gia, người Tỳ-khưu cần phải biết làm thế nào để phá hủy cái ác và làm thế nào để đoạn trừ phiền não. Phá hủy cái ác tức là đoạn trừ phiền não. Phiền não của mỗi người chúng ta là thứ ác độc nhất.

Muốn biết một người nào đó có tu đạo hay không, quý vị chỉ cần xét xem người ấy có còn tánh nóng nảy hay không là biết được ngay. Người có tánh nóng nảy, dễ nổi giận, là người không tu đạo! Phàm những người có tu đạo thì gặp bất cứ chuyện gì họ cũng nhẫn nhịn, cũng chịu đựng được cả. Ai mắng họ, họ cũng nhẫn nhục được; ai đánh họ, họ cũng nhẫn nhịn được; thậm chí có ai giết chết họ, họ cũng vẫn nhẫn chịu được như thường! Bởi đó là những sự việc mà chúng ta cần phải nhẫn nại, cố gắng chịu đựng! Ngoài sự nhẫn nhục, chúng ta còn cần phải có trí huệ, cần phải có khả năng nhận thức.

Tỳ-khưu là một biểu hiện của tướng xuất thế. Thầy Tỳ-khưu có thể "đoạn hoặc, chứng chân" - đoạn trừ các mối hoặc của Tam Giới và chứng đắc quả vị A-la-hán chân chánh. Hôm nay e rằng không đủ thì giờ, tôi nghĩ là phần Tỳ-khưu Chứng Quả đành phải để sang ngày mai giảng tiếp vậy!

Tại đây có một Phật-tử học Phật pháp cũng đã được bốn, năm năm nay rồi, mà mãi đến bây giờ mới được đặt chân đến ngưỡng cửa Chùa Kim Sơn. Người này đã phải tìm kiếm trong bao nhiêu năm trời mới tìm ra được Chùa Kim Sơn. Thật là không phải dễ! Có rất nhiều người cũng lặn lội khắp nơi tìm học Phật pháp như thế, nhưng không tìm thấy được một nơi chân chánh để theo học. Vì vậy, những người từng đến Chùa Kim Sơn đừng nên cho rằng đó là một việc quá đơn giản, quá dễ dàng. Không dễ gì mà đến được Chùa Kim Sơn đâu! Tất cả quý vị cần phải đặc biệt lưu ý điều này.

Chú Thích:

Đề Mục:

-Kết tập Kinh Tạng: Cuộc nhóm hợp lớn lao và chính thức của Giáo Hội Phật Giáo để soạn và duyệt kinh điển nhà Phật.

-Ngữ lục: Sách ghi chép những lời nói hay ho, thâm thúy.

-Đạo Giáo (hay Đạo Lão): Tôn giáo thờ Thái Thượng Lão Quân (Lão Tử) làm vị Nguyên Thủy Thiên Tôn, do Trương Đạo Lăng đời nhà Hán đề xướng. Lão Tử chủ trương rằng Đạo là hư vô, vạn vật đều do Đạo sinh ra, và muốn đạt đến mục đích của Đạo Giáo thì phải "thanh tịnh, vô vi," nghĩa là phải giữ cho lòng được trong sạch, yên lặng một cách tự nhiên. Những người học theo Đạo Giáo được gọi là Đạo sĩ.

-Phép Độn-giáp: Phương pháp suy đoán vận số đoán biết việc tương lai bằng cách dựa theo Lục-giáp tuần hoàn.

-Nhị thừa: Hai cỗ xe; tức là hai giáo pháp Thanh Văn thừa (dạy về Tứ Diệu Đế để đắc quả A-la-hán), và Duyên-Giác thừa hay Bích-Chi-Phật thừa (dạy về Thập Nhị Nhân Duyên; giáo-pháp của người tự tu và tự ngộ quả Duyên-giác hay Độc-giác). Đối với Đại-thừa hay Bồ-tát thừa thì Nhị-thừa cũng là Tiểu thừa.

-Nhà Hán (206BC-AD220):

Nhà Tiền-Hán, cũng gọi là nhà Tây-Hán (206BC-AD24), do Hán-Cao-Tổ Lưu-Bang lập ra, truyền đến Hán-Bình-Đế thì bị mất về tay Vương-Mãn. Tính ra nhà Tiền-Hán trải qua 12 đời vua, trị vì được 210 năm, kinh đô đặt tại Trường-An (tỉnh Thiểm-Tây, Trung-Hoa).

Nhà Hậu Hán hay Đông Hán (25-220). Hán-Quang Võ Lưu-Tú giết Vương-Mãn, gây dựng lại cơ nghiệp nhà Hán và dời đô về Lạc-dương (tỉnh Hà-Nam, Trung Hoa). Nhà Hậu-Hán truyền được 12 đời vua và trị vì được 196 năm thì bị mất về tay nhà Ngụy.

-Kinh Dịch: Sách giải thích về các lẽ biến hóa trong vũ trụ.

Nguyên vua Phục-Hy đặt ra tám quẻ biến đổi gọi là Bát quái; sau đó, Văn-Vương soạn ra lời Soán (đoán) để giải rõ ý nghĩa trong quẻ, và Chu-Công làm thêm lời Hào. Về sau Khổng Tử thể theo các ý đó mà giải thích rộng ra cho dễ hiểu, và gọi là Kinh Dịch, tức là quyển sách chủ yếu nói về sự thay đổi. Chữ "Dịch" bao gồm ba ý nghĩa là bất dịch (không thay đổi), giao-dịch (trao đổi cho nhau), và biến-dịch (biến-hóa thay đổi).

-Quẻ Càn: Quẻ đầu tiên trong tám quẻ Bát Quái (Càn, Khôn, Ly, Khảm, Chấn, Tốn, Cấn, Đoài). Càn là Trời; quẻ Càn tiêu biểu cho tánh tình của Trời, hoàn toàn dương-cương, trung-chính, và thông-thái, có tài đức.

-Cửu Ngũ-Phi Long Tại Thiên, Lợi Kiến Đại Nhân (9:5 Rồng bay giữa trời, may gặp đại-nhân):

Cửu (9) là hào dương và Ngũ (5) là vị dương; dương hào ở dương vị là đắc chính. Quẻ Càn Cửu Ngũ tượng trưng cho sự cương-kiện và đức tánh trung-chính của bậc đại-nhân ở địa vị cao quý nhất, tượng trưng cho con rồng bay giữa trời; đây là một hào tốt nhất.

Hào Cửu Ngũ tượng rồng bay;

Đức Trời tròn vẹn đứng ngay ngôi Trời.

Bậc đại-nhân Cữu Ngũ có đức lớn như trời đất, sáng suốt như mặt trời mặt trăng, khéo sắp xếp mọi việc có thứ tự trước sau như thời tiết bốn mùa, biết được việc lành dữ in như quỷ thần, đón biết được ý Trời và làm trước mà Trời vẫn phải nghe theo, thấy được ý Trời đã rõ nên dù làm theo sau Trời mà lại như Trời làm. Đối với bậc đại-nhân như thế, Trời hãy còn nghe theo huống gì là người và quỷ thần? (theo Chu-Dịch, Sào Nam Phan-Bội-Châu, trang 6).

 

Kinh Tựa:

-Đại Định: Sự quán tưởng bền bỉ, lâu dài, thân tâm chẳng hề động đậy, chỉ chuyên chú vào một cảnh. Đây là sự Định của bậc thành Đạo.

-Pháp thân Đại-sĩ: Hàng Bồ Tát.

-Đức Phật Tỳ-Lô-Xá-Na (Vairochana Buddha): Dịch là Đại-Nhật-Phật, là vị Giáo chủ của cõi Tịnh Độ Liên Hoa Đài Tạng ở phương Đông (đối với cõi Ta Bà của Đức Phật Thích-Ca).

-Viên-đốn Giáo: Thứ giáo pháp viên mãn, đầy đủ, mà lại mau lẹ. Đây là giáo lý của tông Thiên-Thai, dạy cho đầy đủ một cách cấp tốc, dạy cho mau chóng thành Phật, chứ không dạy lần lược từ Tiểu-thừa rồi mới đến Đại-thừa.

-Lộc-dã uyển: Một khu vườn ở gần thành Ba-la-nại. Cũng gọi là Lộc-dã viên, Lộc-uyển, Lộc-viên, vườn Lộc-dã, vườn Lộc, hay vườn Nai.

-Tứ Niệm Xứ: Bốn phép quán tưởng về bốn vô-thường, vô-lạc (khổ), vô-ngã, bất-tịnh:

-Thân niệm xứ, hay Quán thân bất tịnh.

-Thọ niệm xứ, hay Quán thọ thị khổ.

-Tâm niệm xứ, hay Quán tâm vô thường.

-Pháp niệm xứ, hay Quán pháp vô ngã.

-Tứ Chánh Cần (bốn pháp siêng năng chánh đáng):

-Vị sanh thiện căn, linh sanh (chưa sanh thiện căn thì làm cho sanh)

-Dĩ sanh thiện căn, linh trưởng (đã sanh thiện căn thì làm cho tăng trưởng)

-Vị sanh ác, linh bất sanh (chưa sanh ác thì làm cho không sanh).

-Dĩ sanh ác, linh tiêu diệt (đã sanh ác thì làm cho tiêu diệt).

-Tứ Như-Ý Túc (hay Tứ Thần Túc) là bốn phép thần-thông:

-Dục Như-Ý-Túc: Lòng muốn có phép thần thông.

-Niệm Như-Ý Túc: Lòng niệm thần thông.

-Tinh-Tấn Như-Ý-Túc: Giữ gìn ý tưởng luôn hăng hái, siêng năng.

-Tư-Duy Như-Ý-Túc: Suy nghĩ về thần thông, tham cứu đạo-lý.

-Ngũ-Căn: Tín, Tinh-Tấn, Niệm, Định, Huệ.

-Ngũ-Lực: (Năm Sức): Tín, Tinh-Tấn, Niệm, Định, Huệ.

-Thất Bồ-Đề Phần (Bảy Giác-Ngộ): Trạch-Pháp Giác, Tinh-Tấn Giác, Hỷ-Giác, Trừ-Giác, Xả-Giác, Định-Giác, Niệm-Giác.

-Bát Chánh Đạo (Tám Phần Chánh Đạo): Chánh-Kiến, Chánh-Tư-Duy, Chánh-Ngữ, Chánh-Nghiệp, Chánh-Mạng, Chánh-Tinh-Tấn, Chánh-Niệm, Chánh-Định.

-Đại Trượng Phu: Đại là lớn, trượng-phu là người trai tráng, hàng nam tử. Đại trượng-phu là bậc nam tử cao trổi hơn người thường về sức hùng dũng, phước đức, trí huệ.

Xem mục lục