Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (36)


Xem mục lục

15. Bồ Ðề đạo tràng

 Cây Bồ Ðề được nói trong phần này chính là cây đạo tràng nói trong nguyện bốn mươi mốt. Trước hết, kinh nói đến hình tướng cây to lớn trang nghiêm, rồi tường thuật cây có diệu đức khó nghĩ lường; cuối cùng là nói rõ nguyện lực của Di Ðà, nêu quả để làm sáng tỏ cái nhân.

 Chánh kinh: Nơi đạo tràng lại có cây Bồ Ðề cao bốn trăm vạn dặm. Gốc nó to trọn năm ngàn do tuần, cành lá xòe ra bốn phía đến hai mươi vạn dặm, do hết thảy các thứ báu tự nhiên hợp thành. Hoa quả lồ lộ, xum xuê, ánh sáng chói rạng khắp nơi.

Lại có các thứ báu ma ni vàng, lục, xanh dương, trắng, là vua trong các thứ báu để dùng làm anh lạc. Khóa báu Vân Tụ trang hoàng các trụ báu. Vàng, châu, linh, đạc treo khắp trên cành. Lưới báu trân diệu giăng che bên trên. Trăm ngàn vạn sắc chói ngời lẫn nhau, vô lượng tia sáng chiếu rực vô cực. Hết thảy trang nghiêm hiện ra một cách thích ứng.

 Giải: Chữ ‘đạo tràng’ có đến năm nghĩa:

a. Một là chỗ đức Phật Thích Ca thành đạo dưới gốc Bồ Ðề ở Ấn Ðộ được gọi là Ðạo Tràng.

b. Hai là đắc đạo hành pháp như kinh Duy Ma nói: ‘Trực tâm là đạo tràng’.

c. Ba là chỗ cúng Phật được gọi là Ðạo Tràng.

d. Bốn là chỗ học đạo như bản Chú Giải kinh Duy Ma của ngài Tăng Triệu có câu: ‘Chỗ tu đạo thanh vắng gọi là đạo tràng’.

e. Thời Tùy Dượng Ðế, tự viện được gọi là đạo tràng. Vua xuống chiếu bắt gọi các chùa trong thiên hạ là đạo tràng hết.

Chữ ‘đạo tràng’ trong kinh này phải được hiểu theo nghĩa thứ tư, tức là chỗ tu đạo.

Theo sách Tây Vực Ký, cây Bồ Ðề chính là cây Tất Bát La, Phật ngồi dưới gốc cây này thành Ðẳng Chánh Giác nên cây được gọi là cây Bồ Ðề, dịch nghĩa là Ðạo Thọ, hoặc là Giác Thọ. Lúc Phật còn tại thế, cây cao bốn trăm thước, lâu ngày tàn rụi dần chỉ còn cao bốn, năm trượng. Ðấy là cây Bồ Ðề trong thế giới này. Trong kinh này, cây Bồ Ðề cao bốn trăm vạn dặm; nhưng như Quán kinh nói: ‘Thân Phật cao sáu mươi vạn ức na do tha hằng hà sa do tuần’ thì hóa ra thân Phật cao mà cây lại thấp, chẳng tương xứng!

Thật ra điều này chẳng quan hệ gì, những số lượng kinh nói đều chỉ là thuận theo căn cơ của chúng sanh nên chúng ta chớ quá câu nệ. Hơn nữa, toàn thể kinh này là cảnh giới sự sự vô ngại chẳng thể nghĩ bàn, dẫu cho chốn ấy cao thấp sai khác nhưng nếu đã thông đạt huyền môn ‘quảng hiệp tự tại’ thì liền có thể chứng nhập hết thảy pháp giới vô ngại.

Từ chữ ‘hết thảy các báu’ trở đi diễn tả sự trang nghiêm của cây Bồ Ðề. Câu ‘tự nhiên hợp thành’ ngụ ý: cây do đại nguyện, đại lực của Phật Di Ðà mà thành, tự nhiên như thế chẳng phải tạo tác. ‘Phu’ (tạm dịch là lồ lộ) có nghĩa là lộ ra, hiển hiện. ‘Vinh’ (tạm dịch là xum xuê) có nghĩa là um tùm, tươi tốt. Cây Bồ Ðề cũng do hết thảy các thứ báu tự nhiên hợp thành nên hoa quả xum xuê, tươi đẹp rực rỡ, tỏa sáng khắp nơi.

Từ chữ ‘lại có’ trở đi, kinh kể về những thứ trang nghiêm nơi cây. Bài kệ sau đây trong Vãng Sanh Luận: ‘Vô lượng báu giăng xen, lưới mành rợp hư không, các thứ linh vang tiếng, phát ra tiếng pháp mầu nhiệm’ thật tương ứng với đoạn kinh này.

Chuỗi anh lạc, trụ báu, lưới báu được nói trong kinh nói đều là để trang nghiêm nơi không trung phía trên cây. Ðầu tiên là báu ma ni bốn màu: các thứ báu này có đủ hết thảy những đặc tánh tốt đẹp nhất của các báu nên là chúng là tối thượng trong các báu. Do đó, kinh bảo: ‘Vua trong các báu’. Dùng các thứ báu tối thượng như thế làm chuỗi anh lạc treo kín các cành nhánh cây để trang hoàng.

Trong câu ‘khóa báu Vân Tụ’, chữ ‘khóa’ chỉ những chỗ kết cấu ăn khớp vào nhau trong các thứ kiến trúc nơi ấy. ‘Vân Tụ’ chính là tên một thứ báu như bản Ðường dịch ghi: ‘Có các thứ báu như Sư Tử, Vân Tụ… dùng làm khóa móc’. Do đó, ‘khóa báu Vân Tụ’ có nghĩa là dùng báu Vân Tụ để làm các thứ kết cấu dính móc vào nhau.

Bản Tống dịch nói về ‘trụ báu’ như sau: ‘Cõi đức Phật ấy có các trụ báu, đều dùng trăm ngàn trân bảo để trang nghiêm, như là: trụ vàng, trụ bạc, trụ lưu ly, trụ pha lê, trụ chơn châu, trụ xa cừ, trụ mã não’. Lại có những trụ do từ hai thứ báu cho đến bảy thứ bảy hợp thành. Các trụ báu như thế trang hoàng bằng các chuỗi anh lạc cũng như các khóa báu.

Trong nhóm chữ ‘vàng, châu, linh, đạc’ thì ‘vàng’ là vàng ròng, ‘châu’ là chơn châu; ‘linh’ là cái linh bằng kim loại, hình dáng từa tựa như cái chuông nhưng nhỏ hơn nhiều; ‘đạc’ là loại linh có lưỡi gỗ (mộc thiệt: lưỡi ở đây chỉ cái hạt tròn nhỏ được treo trong cái đạc), khi lắc lên sẽ phát ra tiếng. Linh và đạc cùng đều bằng diệu bảo hợp thành, phát ra những âm thanh vi diệu. Bốn thứ nói trên treo đầy khắp các cành nhánh cây Bồ Ðề nên kinh nói ‘treo khắp trên cành’.

Bản Ðường dịch ghi ý ‘lưới báu trân diệu’ như sau: ‘Lại dùng vàng ròng, chơn châu, linh, đạc bằng các thứ báu kết thành lưới’. Như vậy, lưới báu cũng do vàng ròng, chơn châu, linh, đạc tạo thành nên bảo là ‘trân diệu’.

Khi nói về ‘giăng che’ thì ‘giăng’ là căng rộng ra, ‘che’ là trùm lấp, phủ lên. Các lưới báu như thế căng ra phủ trên cây Bồ Ðề nên bảo ‘giăng che bên trên’. Bảo châu phóng quang ‘trăm ngàn vạn sắc’ như Quán kinh nói: ‘Mỗi một bảo châu có ngàn quang minh. Mỗi một quang minh có tám vạn bốn ngàn sắc’. Mỗi một diệu sắc như thế phản chiếu ánh sáng của nhau càng thêm chói lọi khắp cả nên kinh bảo ‘chói ngời lẫn nhau’. ‘Viêm’ nghĩa là ánh lửa tỏa rực lên nên ‘quang viêm’ (tạm dịch là tia sáng) có nghĩa là những tia sáng sáng chói. Mỗi một viên châu tỏa ngàn quang minh; do có vô lượng bảo châu nên kinh bảo ‘vô lượng tia sáng chiếu rực vô cực’. ‘Vô cực’ nghĩa là chẳng có hạn lượng.

Ngài Cảnh Hưng giảng câu: ‘Hết thảy trang nghiêm hiện ra một cách thích ứng’ như sau: ‘Do thiện báo từ bi của đức Như Lai hóa hiện nên thuận theo căn cơ của chúng sanh mà hiện ra các thứ lớn, nhỏ, dài, ngắn, từ một thứ báu, hai thứ báu cho đến các thứ báu, không thứ nào lại chẳng đẹp ý người thấy’. Hóa hiện một cách nhiệm mầu như thế để thích ứng với khắp mọi căn cơ, biến hóa chẳng ngăn ngại. Mỗi một thứ đều mầu nhiệm viên mãn hiển bày trọn vẹn sự sự vô ngại.

 Chánh kinh: Gió nhẹ khẽ động thổi qua các cành, lá diễn xuất vô lượng âm thanh diệu pháp. Những âm thanh ấy lan truyền khắp các cõi Phật: thanh tịnh, sảng khoái, bi mẫn, trong sáng, vi diệu, hòa nhã, thật là âm thanh bậc nhất trong các âm thanh trong mười phương thế giới.

 Giải: Ðoạn kinh này thuật rõ cây có khả năng diễn nói diệu pháp, công dụng chẳng thể nghĩ bàn.

‘Diệu pháp’ là pháp tối thắng bậc nhất chẳng thể nghĩ bàn. Bài Tựa sách Pháp Hoa Huyền Nghĩa có câu: ‘Diệu là [chữ để] khen ngợi pháp tốt lành chẳng thể nghĩ bàn’. Gió thổi lay cành, lá cây báu, phát ra âm thanh diễn nói chẳng thể tính kể nổi pháp âm vi diệu nên bảo là ‘diễn xuất vô lượng âm thanh diệu pháp’.

Ngài Ðàm Loan bảo: ‘Âm thanh ấy làm Phật sự chẳng thể nghĩ bàn’. Chữ ‘Phật sự’ chỉ sự giáo hóa của chư Phật, cũng như hết thảy việc có lợi cho Phật đạo. Thông thường những pháp hội cầu phước, cầu siêu v.v… cũng được gọi là Phật sự. Trong cõi Cực Lạc, âm thanh do cây báu phát ra cũng làm được các Phật sự nên ngài Ðàm Loan mới khen ngợi là chẳng thể nghĩ bàn.

Hơn nữa, âm thanh ấy lại ‘thanh, sướng, ai, lương, vi diệu, hòa nhã’ (tạm dịch là: thanh tịnh, sảng khoái, bi mẫn, trong trẻo, vi diệu, hòa nhã). Ngài Nghĩa Tịch bảo: ‘Thanh là thanh tịnh, nghe được chẳng sanh tâm trược nhiễm. Dương là tuyên dương do âm thanh ấy có thể tuyên dương pháp Thật Tướng (bản ngài Nghĩa Tịch dùng để chú giải ghi là ‘thanh dương’, còn hội bản ghi là ‘thanh sướng’. ‘Sướng’ có nghĩa là thông suốt, vui sướng, khiến cho người nghe sảng khoái. Sướng lại có nghĩa là thông hiểu, nghĩa là pháp âm ấy khiến cho người nghe thông đạt được pháp Thật Tướng). ‘Ai’ là bi ai, pháp ấy khiến người nghe sanh tâm đại bi. ‘Lương’ là trong trẻo, vang vọng, thấu triệt, rõ ràng. Pháp âm ấy khiến cho người nghe khai phát trí huệ. ‘Vi’ là tinh tế, bí mật: Pháp âm ấy tinh tế, bí mật như tiếng âm nhạc cõi Phạm thiên. ‘Diệu’ là hay đẹp tuyệt diệu. Âm thanh ấy hay tuyệt diệu như tiếng chim Loan (chim phụng hoàng cái). ‘Hòa’ là điều hòa, âm vận nhịp nhàng, réo rắt. ‘Nhã’ là thanh nhã, đứng đắn; pháp âm ấy thanh nhã, đứng đắn vì thuận theo Phật pháp’.

Những đức tánh vừa thuật của những âm thanh ấy không những chỉ đặc biệt lạ lùng nhất đối với các cõi trời mà so trong mười phương thế giới, những âm thanh ấy cũng là bậc nhất nên kinh bảo: ‘Thật là bậc nhất trong các âm thanh trong mười phương thế giới’.

 

Chánh kinh: Nếu có chúng sanh thấy cây Bồ Ðề, nghe tiếng, ngửi mùi, nếm vị trái cây, chạm phải ánh sáng, hình bóng nó, nghĩ đến công đức của cây thì đều được sáu căn thanh triệt, không có các não hoạn, trụ bất thối chuyển, đạt thành Phật đạo. Lại do thấy cây ấy sẽ đắc ba thứ nhẫn: một là Âm Hưởng Nhẫn, hai là Nhu Thuận Nhẫn, ba là Vô Sanh Pháp Nhẫn.

 Giải: Ðoạn kinh này chỉ rõ cây Bồ Ðề tạo lợi ích, rộng thí cái lợi chơn thật. Nếu có chúng sanh nào mắt thấy cây ấy, tai nghe tiếng từ cây phát ra, mũi ngửi được mùi hương, miệng nếm vị trái cây ấy, thân chạm phải ánh sáng, bóng cây, hoặc ý căn nghĩ nhớ đến công đức của cây thì sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, bất cứ căn nào tiếp xúc với cây ấy cũng đều khiến cho người ấy đắc bất thối, đắc nhẫn, được cái lợi ích thành Phật.

Trước hết, kinh nói: ‘Ðều được sáu căn thanh triệt’. Sách Hội Sớ giảng như sau: ‘Căn tai không cấu nhiễm là Thanh, nghe tỏ tường các âm là Triệt’. Cứ theo đó mà suy ra các căn khác: nhãn căn không cấu nhiễm là thanh, thấy tỏ tường các sắc là triệt; cho đến ý căn không cấu nhiễm là thanh, hiểu tỏ tường các pháp là triệt. Sáu căn đều phát sanh thắng trí, đều được thanh triệt nên bảo là ‘sáu căn thanh triệt’.

Sách Tiên Chú giảng chữ ‘não’ như sau: ‘Não là tên gọi của một thứ tâm sở (2), là một trong các pháp thuộc về tiểu phiền não (sáu pháp: vô minh, phóng dật, lười biếng, chẳng tin, hôn trầm và lao chao gọi là đại phiền não pháp). Não nghĩa là dẫu tự mình biết những điều ác chính mình làm là ác nhưng chẳng thay đổi, cứ chấp trước đến cùng, chẳng chịu nghe người khác can gián nhưng trong lòng tự buồn bã, phiền muộn.

Não cũng là một pháp trong mười hai tùy phiền não (tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến gọi là căn bản phiền não. Những phiền não phát sanh từ căn bản phiền não gọi là tùy phiền não), nghĩa là nghĩ lại những sự việc trong quá khứ, hoặc do hiện tại có việc gì chẳng vừa ý khiến cho tinh thần tự phiền não’.

Sách Duy Thức Thuật Ký lại giảng: ‘Phiền là quấy rối. Não là làm loạn’. Xa rời cái khổ phiền não nên bảo là ‘không có các não hoạn’. Thậm chí được bất thối chuyển, hướng thẳng đến chỗ thành Phật nên bảo là ‘trụ bất thối chuyển đạt thành Phật đạo’.

Kế tiếp, kinh dạy trông thấy cây Bồ Ðề sẽ đắc nhẫn. Ðoạn trên nói đủ cả sáu căn, đoạn này chỉ nói mình nhãn căn; đó là chỉ lấy nhãn căn làm đại biểu cho các căn khác. Việc trông thấy cây liền đắc nhẫn chính là kết quả của nguyện thứ bốn mươi ‘nơi cây thấy các cõi Phật’ và nguyện bốn mươi bảy ‘nghe danh đắc nhẫn’.

Sách Hội Sớ bảo: ‘Ngửa xem cây Ðạo Tràng chính là biểu tượng của quả Chánh Giác viên mãn, còn danh hiệu chính là thật thể của bổn nguyện thành tựu. Vì thế, lời nguyện “nghe danh đắc nhẫn” là nhân tạo thành cái quả thành tựu trông thấy cây đắc nhẫn (ý nói: Do đại nguyện của Phật Di Ðà đã thành tựu nên dùng việc thấy cây đắc nhẫn để chứng minh lời nguyện ấy).

Nghe danh chính là nghe âm thanh mầu nhiệm phát ra từ cây Ðạo Tràng (như kinh Tiểu Bổn chép: ‘Nghe tiếng ấy thì tự nhiên đều sanh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng’). Trông thấy cây ấy là trông thấy quả đức của Phật A Di Ðà. Lấy đó mà suy thì việc nghe danh đắc nhẫn đã rõ rành rành vậy’.

Nói tóm lại, danh hiệu và cây Bồ Ðề đều là từ diệu đức của quả địa Ðại Giác biến hiện, đều là viên viên quả hải, đầy đủ viên dung muôn đức, đều là thanh tịnh cú, chơn thật trí huệ vô vi Pháp Thân, đều là ‘chơn thật tế’ mà cũng chính là tự tánh của đương nhân nên mới có những lợi ích chơn thật chẳng thể nghĩ bàn như vậy.

Nhưng danh hiệu ngài vang đội khắp mười phương, độ trọn ba căn; còn muốn thấy được cây ấy chỉ còn cách sanh về Tịnh Ðộ, tận mắt thấy cây báu mới đạt được lợi ích ấy. So sánh hai điều này thì cái lợi nghe danh đắc nhẫn lại càng rõ rệt. Bởi thế sách Hội Sớ mới viết: ‘Lấy đó mà suy thì việc nghe danh đắc nhẫn càng rõ rành rành vậy’.

‘Ðắc nhẫn’: Tin được lý khó tin chẳng lầm lạc thì gọi là ‘nhẫn’. Ngài Tịnh Ảnh nói: ‘Huệ tâm an trụ nơi pháp thì gọi là Nhẫn’. Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương, quyển mười một bảo: ‘An trụ trong Thật Tướng của các pháp là Nhẫn’. Sách Hội Sớ giảng: ‘Trí hạnh tăng tấn là Pháp Nhẫn’.

Tịnh Ảnh Sớ giảng câu ‘đắc ba thứ nhẫn’ như sau: ‘Vừa nghe tiếng liền giải ngộ, biết tiếng ấy như tiếng vang thì gọi là Âm Hưởng Nhẫn; đó là từ bậc tam địa trở xuống. Xả Thuyên hướng Thật thì gọi là Nhu Thuận Nhẫn, đó là pháp nhẫn của bậc tứ, ngũ, lục địa. Chứng Thật lìa tướng thì gọi là Vô Sanh Nhẫn; đó là nhẫn của bậc Thất Ðịa trở lên’.

Ý nói: Nghe pháp ngộ đạo, biết hết thảy pháp giống như tiếng vọng, như mộng, huyễn, bọt nước, hình bóng thì gọi là Âm Hưởng Nhẫn. Bậc Bồ Tát trong Biệt Giáo từ Tam Ðịa trở xuống đắc nhẫn này. Xả ly ngôn thuyên (3), hướng đến Thật Tướng thì gọi là Nhu Thuận Nhẫn; các vị Bồ Tát Tứ Ðịa, Ngũ Ðịa, Lục Ðịa chứng đắc nhẫn này. Nếu chứng nhập Thật Tướng, lìa hết thảy tướng thì gọi là đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn; đây chính là pháp nhẫn của bậc Bồ Tát từ Thất Ðịa trở lên.

Sách Di Ðà Sớ Sao lại giảng: ‘Nói giản lược, có hai thứ Vô Sanh Nhẫn: một là xét về pháp, hai là xét về hạnh.

a. Xét theo pháp thì về lý, các pháp chẳng phát khởi, tác dụng, đều gọi là Vô Sanh. Huệ tâm an trụ vào đấy nên gọi là Nhẫn.

b. Xét về hạnh thì báo hạnh thuần thục, trí hiểu rõ lý vô tướng, vô công dụng, rộng dường hư không, sâu như biển thẳm, vọng hoặc trong tâm thức chẳng còn, lặng lẽ chẳng khởi thì mới gọi là Vô Sanh.

Loại thứ nhất địa nào cũng có, loại thứ hai chỉ bậc Bát Ðịa mới chứng nổi’.

Như vậy, Vô Sanh Pháp Nhẫn được giảng trong Tịnh Ảnh Sớ chính là loại “Vô Sanh Pháp Nhẫn xét theo hạnh” trong Di Ðà Sớ Sao. Ngài Tịnh Ảnh bảo từ bậc Thất Ðịa trở lên, đại sư Liên Trì bảo là Bát Ðịa, hai thuyết chẳng mâu thuẫn nhau. Hơn nữa, kinh Nhân Vương cũng bảo Vô Sanh Pháp Nhẫn thuộc về Thất Ðịa, Bát Ðịa, Cửu Ðịa (các thuyết của những vị khác chẳng trích dẫn ở đây)

Trong ba pháp nhẫn được nói trong kinh này, đầu tiên là Âm Hưởng Nhẫn, kế đó là Nhu Thuận Nhẫn. Như vậy, ba thứ nhẫn này tuy khác với kinh Hiền Kiếp nhưng lại giống những nhẫn nói trong phẩm Thập Nhẫn của kinh Hoa Nghiêm và kinh Như Lai Hưng Hiển.

Phẩm Thập Nhẫn trong kinh Hoa Nghiêm, bản Cựu dịch, ghi: ‘Một là Âm Thanh Nhẫn, hai là Thuận Nhẫn, ba là Vô Sanh Pháp Nhẫn, bốn là Như Huyễn Nhẫn, năm là Như Diệm Nhẫn, sáu là Như Mộng Nhẫn, bảy là Như Hưởng Nhẫn, tám là Như Ảnh Nhẫn, chín là Như Hóa Nhẫn, mười là Như Không Nhẫn’. Ba nhẫn đầu tiên giống như ba nhẫn được nói trong kinh này.

Phẩm Thập Nhẫn còn nói: ‘Nếu nghe pháp chơn thật mà chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng hãi, tin hiểu, thọ trì, yêu thích thâm nhập, tu tập, an trụ thì đấy là nhẫn thứ nhất: Tùy Thuận Âm Thanh Nhẫn’; đó chính là Âm Hưởng Nhẫn.

Kinh lại dạy: ‘Bồ Tát ấy tùy thuận tịch tĩnh, quán hết thảy pháp bình đẳng chánh niệm, chẳng trái nghịch chư pháp, tùy thuận thâm nhập hết thảy các pháp thanh tịnh, trực tâm phân biệt các pháp, tu bình đẳng quán, thâm nhập trọn vẹn thì đấy là Thuận Nhẫn thứ hai’; đây chính là Nhu Thuận Nhẫn.

Kinh lại dạy: ‘Bồ Tát ấy chẳng thấy có pháp sanh, chẳng thấy có pháp diệt, vì sao thế? Nếu chẳng sanh thì chẳng diệt. Nếu chẳng diệt thì vô tận. Nếu vô tận thì ly cấu. Nếu ly cấu thì vô hoại. Nếu vô hoại thì bất động. Nếu bất động thì tịch diệt… Ðấy là Vô Sanh Pháp Nhẫn thứ ba’.

Nói một cách giản dị, an trụ trong lý thể Chơn Như Thật Tướng bất sanh bất diệt thì gọi là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Việc thấy cây Bồ Ðề sẽ đạt được công đức như vậy thật đã hiển thị sâu xa nguyện lực chẳng thể nghĩ bàn của Phật Di Ðà .

 Chánh kinh: Phật bảo A Nan:

-  Cõi Phật như thế, hoa, quả, cây cối và các chúng sanh đều làm Phật sự. Ðấy đều là do sức oai thần, do sức bổn nguyện, do mãn túc nguyện, do nguyện rõ ràng kiên cố, rốt ráo của Vô Lượng Thọ Phật vậy.

 Giải: Phật bảo A Nan: Thế giới Cực Lạc hy hữu chẳng thể nghĩ bàn đến như thế ấy. Hoa, quả, cây cối đều làm Phật sự, tăng trưởng thiện căn thù thắng của hữu tình khiến họ đắc nhẫn, chứng nhập vô sanh. Ðấy là do sức oai thần của quả đức của đức Phật ấy và sức bổn nguyện, sức trọn vẹn đầy đủ, sức rõ ràng, kiên cố, rốt ráo của ngài vậy.

Ngài Tịnh Ảnh bảo: ‘Câu “đều do oai thần lực của Phật Vô Lượng Thọ” có nghĩa là do oai lực hiện tại của đức Phật ấy nên đạt được ba nhẫn. Chữ “sức bổn nguyện” hàm ý do sức bổn nguyện trong quá khứ của ngài nên đắc ba nhẫn. Bổn nguyện là tổng, còn bốn thứ kia (rõ ràng, trọn vẹn, kiên cố, cứu cánh) là biệt.

“Nguyện mãn túc” là nguyện tâm trọn vẹn, đầy đủ. “Nguyện rõ ràng” là tâm mong cầu rõ ràng, rành rẽ. “Nguyện kiên cố” là các duyên chẳng hoại được [nguyện ấy]. “Nguyện rốt ráo” là rốt cục chẳng thối thất. Do các nguyện ấy nên người sanh về cõi kia sẽ đắc ba nhẫn’.

Ngài Nghĩa Tịch, Cảnh Hưng đều cho rằng ‘nguyện mãn túc’ nghĩa là ‘bốn mươi tám nguyện chẳng khuyết giảm’. Ngài Nghĩa Tịch, Vọng Tây cùng giảng ‘nguyện rõ ràng’ ‘minh và huệ tương ứng với nhau’; ngài Cảnh Hưng lại giảng là ‘mong cầu chẳng hư dối’. Về ‘nguyện kiên cố’, ngài Nghĩa Tịch bảo: ‘[Là] do tinh tấn chẳng thối chuyển tạo thành’. Ngài Nghĩa Tịch, ngài Vọng Tây cùng giảng ‘nguyện rốt ráo’‘đến tột cùng bờ mé của pháp giới hữu tình’ (độ sạch hết thảy hữu tình trong pháp giới). Các thuyết trên bổ sung lẫn nhau.

Về ‘sức bổn nguyện’, Vãng Sanh Luận bảo: ‘Quán sức bổn nguyện của Phật, gặp gỡ chẳng luống uổng, khiến cho được trọn đủ biển báu công đức lớn’. Sách Luận Chú giảng như sau: ‘Vốn là từ bốn mươi tám nguyện của Pháp Tạng Bồ Tát tạo thành cái gọi là thần lực tự tại của A Di Ðà Như Lai. Nguyện biến thành lực, lực nhằm thành tựu nguyện. Nguyện chẳng phí uổng, lực chẳng dối bày. Lực và nguyện hỗ trợ nhau, rốt ráo chẳng sai biệt’. Dựa trên bổn nguyện của Pháp Tạng Bồ Tát nên ngày nay mới có thần lực tự tại của Phật Di Ðà. Do trong lúc tu nhân, Phật Di Ðà phát nguyện ‘nghe danh đắc nhẫn’ nên do nguyện lực nay thành tựu công đức thù thắng: trông thấy cây Bồ Ðề liền đắc nhẫn nơi cõi Cực Lạc. Do nguyện phát sanh lực, nguyện được thành là do lực nên kinh mới chép: ‘Ðều là do sức oai thần, sức bổn nguyện của Vô Lượng Thọ Phật’ nên trông thấy cây đều đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, chứng ngay Bát Ðịa Bồ Tát.

Xem mục lục