Bài Viết (701)


KINH MA HA BÁT NHÃ – PHẨM ĐÀM VÔ KIỆT THỨ 89

1,530

Thường Đề Bồ Tát (Tát Đà Ba Luân) bạch Ðàm Vô Kiệt Bồ Tát rằng:
Ngày trước lúc tôi cầu Bát nhã ba la mật, ở trong rừng vắng vẻ nghe tiếng trên hư không dạy rằng: Này thiện nam tử! Từ đây người đi qua phương Ðông sẽ được nghe Bát nhã ba la mật. Tôi theo lời đi qua phương Ðông. Chẳng bao lâu tôi nghĩ rằng sao tôi chẳng hỏi nơi tiếng hư không: Tôi phải đi đến xứ nào, xa gần, nghe pháp nơi ai? Tôi quá buồn khổ khóc lóc, ở lại đó bảy ngày đêm, vì quá buồn khổ nên tôi không màng ăn uống, chỉ nghĩ rằng lúc nào tôi được nghe Bát nhã ba la mật? Ðương lúc tôi buồn rầu nhứt tâm niệm Bát nhã ba la mật như vậy, tôi thấy đức Phật hiện thân trên hư không bảo tôi rằng: Nhà ngươi chớ buông bỏ tâm đại nguyện, đại tinh tiến. Dùng tâm đại nguyện, đại tinh tiến ấy, nhà ngươi đi qua phương Ðông cách đây năm trăm do tuần có tòa thành tên Chúng Hương, trong thành ấy có Ðại Bồ Tát tên Ðàm Vô Kiệt Bồ Tát. Nhà người sẽ được nghe Bát nhã ba la mật nơi Ðàm Vô Kiệt Bồ Tát. Bồ Tát ấy là thiện tri thức nhiều đời của nhà ngươi, thường thủ hộ nhà ngươi.
Ðức Phật chỉ bảo xong, tôi đi qua phương Ðông, trong lòng chẳng nghĩ gì khác, chỉ tâm niệm bao giờ tôi được thấy Ðàm Vô Kiệt Bồ Tát vì tôi mà nói Bát nhã ba la mật?
Lúc ấy tôi dừng lại giữa đường, nơi tất cả pháp, tôi được tri kiến vô ngại, được các tam muội quán chư Pháp tánh v.v… hiện ra trước. Tôi an trụ trong các tam muội ấy, thấy mười phương vô lượng vô số chư Phật giảng thuyết Bát nhã ba la mật. Chư Phật giảng thuyết Bát nhã ba la mật. Chư Phật khen tôi rằng: Lành thay, lành thay! Này thiện nam tử! Thuở trước, lúc cầu Bát nhã ba la mật, ta được các tam muội cũng như nhà ngươi hôm nay vậy. Ðược các tam muội ấy rồi thì được khắp các Phật pháp.
Chư Phật vì tôi thuyết pháp và an ủi tôi xong, bỗng nhiên chẳng hiện.
Tôi từ tam muội dậy, suy nghĩ rằng: Chư Phật từ đâu đến và đi đến đâu?
Vì không còn thấy chư Phật nên tôi rất buồn rầu.
Tôi lại suy nghĩ rằng Ðàm Vô Kiệt Bồ Tát trước đã cúng dường chư Phật gieo các căn lành, từ lâu hành Bát nhã ba la mật và sức phương tiện, ở trong Bồ Tát đạo đã được tự tại, là thiện tri thức của tôi, thủ hộ tôi.
Tôi sẽ hỏi Ðàm Vô Kiệt Bồ Tát sự việc ấy: Chư Phật từ đâu đến và đi đến đâu.
Nay tôi hỏi Đại sư: Chư Phật ấy từ đâu đến và đi đến đâu?
Ðại sư vì tôi nói chỗ chư Phật từ đâu đến và đi cho tôi được biết.
Tôi biết rồi cũng thường chẳng rời thấy chư Phật.
Lúc ấy Ðàm Vô Kiệt Bồ Tát bảo Thường Đề Bồ Tát:
Này thiện nam tử! Chư Phật không từ đâu đến, đi cũng không đến đâu. Tại sao vậy?
Chư pháp như, tướng chẳng động.
Chư pháp như tức là chư Phật.
Pháp vô sanh không đến, không đi. Pháp vô diệt tức là chư Phật.
Pháp vô diệt không đến, không đi. Pháp vô diệt tức là chư Phật.
Pháp thiệt tế không đến, không đi. Pháp thiệt tế là chư Phật.
Pháp Không không đến, không đi. Pháp Không là chư Phật.
Pháp vô nhiễm không đến, không đi. Pháp vô nhiễm là chư Phật.
Pháp tịch diệt không đến, không đi. Pháp tịch diệt là chư Phật.
Tánh hư không không đến, không đi. Tánh hư không là chư Phật.
Này thiện nam tử! Rời các pháp ấy không còn có Phật.
Chư Phật như, các pháp như, một như không sai khác.
Này thiện nam tử! Như ấy thường một, không có hai, không có ba, ra ngoài các pháp số, vì là vô sở hữu.
Ví như tháng cuối xuân, giữa ngày lúc nắng nóng, có người thấy ánh nắng dợn động bèn đuổi theo mong tìm được nước. Ý ông nghĩ sao? Nước ấy từ ao nào, núi nào, suối nào chảy đến, nay đi về đâu, hoặc là chảy về biển Ðông, biển Tây, biển Nam, biển Bắc ư?
Thường Đề Bồ Tát thưa:
Thưa Ðại sư! Trong ánh nắng còn không có nước, làm sao có được chỗ nước đến, nước đi!
Này thiện nam tử! Kẻ ngu vô trí bị sự khát bức ngặt, thấy nắng dợn bèn tường là nước.
Này thiện nam tử! nếu có người phân biệt chư Phật có đi, phải biết các người ấy đều là ngu phu.
Tại sao vậy?
Này thiện nam tử! Chư Phật, chẳng thể lấy sắc thân thấy được. Pháp thân chư Phật không đến, không đi, cũng không chỗ đến, chỗ đi.
Này thiện nam tử! Thí như nhà ảo thuật, làm ra các thứ như voi, ngựa, bò, dê, nam, nữ. Ý ông nghĩ sao? Ảo sự ấy từ chỗ nào đến, đi đến đâu?
Thưa Ðại sư! Ảo sự không thiệt làm sao có chỗ đến, chỗ đi.
Này thiện nam tử! Người mà phân biệt đức Phật có đến, có đi cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Ví như chiêm bao thấy voi, ngựa, bò, dê, nam, nữ. Ý ông nghĩ sao? Cảnh vật được thấy trong chiêm bao có chỗ đến chỗ đi chăng?
Thưa Ðại sư! Cảnh vật được thấy trong chiêm bao đều là hư vọng, làm sao lại có đến, có đi.
Này thiện nam tử! Nếu người mà phân biệt đức Phật có đến, có đi cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Ðức Phật nói các pháp như chiêm bao. Nếu có chúng sanh nào chẳng biết pháp nghĩa ấy, cho danh tự sắc thân là Phật, người ấy phân biệt chư Phật có đến, có đi.
Vì chẳng biết tướng thiệt tế của các pháp, nên đều là hạng ngu phu vô trí.
Các người ấy mãi mãi qua lại năm đường, xa rời Bát nhã ba la mật, xa rời các Phật pháp.
Này thiện nam tử! Ðức Phật nói các pháp như ảo, như mộng. Nếu có chúng sanh nào biết đúng thiệt, thì người ấy chẳng phân biệt các pháp, hoặc đến, hoặc đi, hoặc sanh, hoặc diệt.
Nếu chẳng phân biệt các pháp hoặc đến, hoặc đi, hoặc sanh, hoặc diệt thì có thể biết được thiệt tướng của các pháp mà đức Phật đã nói. Người ấy hành Bát nhã ba la mật gần Vô Thượng Bồ Ðề, gọi là chơn Phật đệ tử, chẳng hư vọng ăn của tín thí. Người ấy đáng nhận cúng dường. Là phước điền thế gian.
Này thiện nam tử! Ví như ở đại hải, những châu báu trong nước chẳng từ phương Ðông lại, chẳng từ phương Nam lại, chẳng từ phương Tây lại, chẳng từ phương Bắc lại, cũng chẳng từ bốn phương cạnh và trên dưới lại. Vì do nơi căn lành của chúng sanh mà biển sanh châu báu ấy. Châu báu ấy cũng chẳng phải không nhơn duyên mà sanh. Châu báu ấy đều từ nhơn duyên hòa hiệp mà sanh. Châu báu ấy nếu diệt mất, nó cũng chẳng đi đến mười phương. Các duyên hòa hiệp thì có. Các duyên rời tan thì diệt.
Này thiện nam tử! Thân chư Phật cũng vậy, từ bổn nghiệp nhơn duyên quả báo mà sanh. Lúc sanh chẳng từ mười phương đến, lúc diệt cũng chẳng đi đến mười phương. Chỉ các duyên hiệp thì có, các duyên rời thì diệt.
Này thiện nam tử! Ví như đờn không hầu, lúc tiếng phát ra không chỗ đến, lúc tiếng diệt không chỗ đi. Vì các duyên hòa hiệp nên có tiếng.
Có thùng, có cổ, có da, có dây, có trụ, có cần, có người lấy tay khảy, các duyên ấy hòa hiệp mà có âm thanh ấy. Âm thanh ấy cũng chẳng từ thùng đờn nhẫn đến chẳng từ tay người phát ra. Các duyên hòa hiệp bèn có âm thanh. Lúc các duyên ấy rời tan, âm thanh cũng không có chỗ đi.
Này thiện nam tử! Thân chư Phật cũng như vậy, từ vô lượng công đức nhơn duyên sanh, chẳng từ một nhơn, một duyên, một công đức sanh, cũng chẳng không nhơn duyên mà có. Vì các duyên hòa hiệp nên có. Thân chư Phật chẳng riêng từ một sự mà thành. Ðến không từ đâu, đi không đến đâu.
Này thiện nam tử! Phải biết chư Phật, tướng đến, tướng đi như vậy.
Này thiện nam tử! Cũng phải biết tất cả pháp không có tướng đến, đi.
Nếu ông biết chư Phật và các pháp không có tướng đến, đi, sanh, diệt thì tất là được Vô Thượng Bồ Ðề, cũng hay hành Bát nhã ba la mật và phương tiện lực.
Lúc ấy Thiên Ðế Thích Ðề Hoàn Nhơn đem hoa trời mạn đà la trao cho Thường Đề Bồ Tát mà nói rằng:
Người lấy hoa này cúng dường Ðàm Vô Kiệt Bồ Tát. Tôi phải thủ hộ cúng dường Ngài.
Tại sao vậy?
Vì do nơi Ngài mà hôm nay đem sự lợi ích đến cho trăm ngàn muôn ức chúng sanh, khiến họ được Vô Thượng Bồ Ðề.
Này Ngài! Ðàm Vô Kiệt Bồ Tát ấy rất khó gặp được. Vì lợi ích cho tất cả chúng sanh mà Ðại Bồ Tát chịu những sự nhọc nhằn khổ sở trong vô lượng vô số kiếp.
Thường Đề Bồ Tát nhận lấy hoa mạn đà la rải trên Ðàm Vô Kiệt Bồ Tát mà bạch rằng:
Thưa Ðại sư! Từ ngày hôm nay, thân tôi thuộc về Ðại sư dùng cung cấp cúng dường.
Lúc ấy trưởng giả nữ và năm trăm thị nữ thưa với Thường Đề Bồ Tát rằng:
Từ hôm nay chúng tôi cũng đem thân thuộc về Ngài. Do căn lành nhơn duyên này, chúng tôi sẽ được pháp như vậy, cũng như Ngài đã được. Chúng tôi cùng Ngài đời đời cúng dường chư Phật, đời đời thường cúng dường ngài.
Thường Đề Bồ Tát bảo chúng nữ nhơn:
Các người lấy tâm chí thành thuộc về tôi, tôi sẽ nhận các người.
Chúng nữ thưa:
Chúng tôi tâm chí thành thuộc về Ngài, tùy theo chỗ Ngài dạy bảo.
Thường Đề Bồ Tát và chúng nữ đem những đồ bửu vật trang nghiêm cùng năm trăm cỗ xe bảy báu dâng lên Ðàm Vô Kiệt Bồ Tát mà bạch rằng:
Tôi đem năm trăm nữ nhơn này phụng cấp Đại sư. Năm trăm cỗ xe này tùy Đại sư dùng.
Thiên Ðế Thích liền khen rằng:
Lành thay! Lành thay! Này Ngài! Ðại Bồ Tát thí xả tất cả sở hữu phải như vậy. Bố thí như vậy sẽ chóng được Vô Thượng Bồ Ðề.
Cúng dường người thuyết pháp như vậy ắt có thể được nghe Bát nhã ba la mật và phương tiện lực.
Chư Phật quá khứ, thuở trước lúc hành Bồ Tát đạo cũng an trụ trong sự bố thí như vậy mà được nghe Bát nhã ba la mật và phương tiện lực rồi được Vô Thượng Bồ Ðề.
Lúc ấy Ðàm Vô Kiệt Bồ Tát muốn cho Thường Đề Bồ Tát được căn lành đầy đủ nên thọ lấy năm trăm cỗ xe, năm trăm thị nữ và trưởng giả nữ, thọ lấy xong bèn đem cho lại Thường Đề Bồ Tát.
Ðàm Vô Kiệt Bồ Tát thuyết pháp đến mặt trời lặn, Ngài rời khỏi pháp tọa vào cung.
Thường Đề Bồ Tát nghĩ rằng: Tôi vì pháp mà đến đây, vậy tôi chẳng nên ngồi và nằm. Tôi phải dùng hai oai nghi: hoặc đi, hoặc đứng để chờ pháp sư từ nội cung ra thuyết pháp.
Lúc ấy Ðàm Vô Kiệt Bồ Tát trọn bảy năm nhứt tâm nhập trong Vô lượng A tăng kỳ Bồ Tát tam muội và hành Bát nhã ba la mật cùng phương tiện lực.
Thường Đề Bồ Tát cũng trọn bảy năm đi tu kinh hành hoặc đứng, chẳng ngồi, chẳng nằm, không có ngủ nghỉ, không tham dục giận phiền, lòng chẳng chấp luyến, chỉ niệm Ðàm Vô Kiệt Bồ Tát bao giờ xuất định ra thuyết pháp.
Qua bảy năm, Thường Đề Bồ Tát nghĩ rằng tôi phải vì Ðàm Vô Kiệt Bồ Tát mà trần thiết pháp tọa để Ngài sẽ ngồi trên đó thuyết pháp. Tôi phải rưới quét sạch sẽ, rải các thứ hoa, trang nghiêm chỗ thuyết pháp, vì Ðàm Vô Kiệt Bồ Tát sẽ thuyết Bát nhã ba la mật và phương tiện lực.
Lúc ấy Thường Đề Bồ Tát cùng trưởng giả nữ và năm trăm thị nữ đặt giường bảy báu. Năm trăm nữ nhơn đều cởi thượng y của mình trải trên pháp tọa, tâm niệm Ðàm Vô Kiệt Bồ Tát sẽ ngồi trên pháp tọa này thuyết Bát nhã ba la mật và phương tiện lực.
Sắp đặt pháp tọa xong, tìm nước rưới đất mà tìm không được. Tại sao? Vì ác ma che ngăn làm cho nước chẳng hiệp.
Ma nghĩ rằng Thường Đề Bồ Tát tìm nước chẳng được, ở nơi Vô Thượng Bồ Ðề nếu móng khởi chừng một niệm kém khác thì trí huệ chẳng chiếu, căn lành chẳng thêm, sẽ chậm trễ nơi nhứt thiết trí.
Lúc ấy Thường Đề Bồ Tát nghĩ rằng tôi phải tự đâm thân mình lấy máu rưới đất để bụi không bay lấm dơ Ðại sư. Tôi còn cần thân thể này, nó sẽ hư hại. Từ vô thỉ đến nay, tôi luôn luôn mất thân mạng chưa từng được có pháp.
Thường Đề Bồ Tát liền cầm dao bén tự đâm vào thân, lấy máu rưới đất.
Thường Đề Bồ Tát với trưởng giả nữ và năm trăm thị nữ đều không có tâm niệm khác, ma cũng không có dịp hại được.
Thiên Ðế Thích Ðề Hoàn Nhơn nghĩ rằng: Thiệt chưa từng có, Thường Đề Bồ Tát mến yêu chánh pháp đến đỗi như vậy. Tự đâm thân mình lấy máu rưới đất. Bồ Tát ấy cùng chúng nữ nhơn tâm chẳng động chuyển. Ác ma Ba Tuần chẳng phá hư được căn lành của họ. Tâm họ kiên cố, phát đại trang nghiêm, chẳng tiếc thân mạng. Dùng thâm tâm cầu Vô Thượng Bồ Ðề. Sẽ độ tất cả chúng sanh khỏi vô lượng sanh tử.
Thiên Ðế Thích khen ngợi Thường Đề Bồ Tát:
Thiện nam tử! Ngài có sức tinh tiến kiến cố khó lay động, chẳng nghĩ bàn được. Ngài yêu mến chánh pháp, cầu được chánh pháp rất là vô thượng.
Thiện nam tử! Chư Phật thuở quá khứ cũng như vậy. Dùng thâm tâm yêu pháp, tiếc pháp, trọng pháp, tập họp các công đức, được Vô Thượng Bồ Ðề.
Thường Đề Bồ Tát nghĩ rằng tôi đã vì Ðàm Vô Kiệt Bồ Tát trần thiết pháp tọa, quét rưới đất sạch sẽ rồi, tôi phải tìm ở đâu để được hoa đẹp thơm để trang nghiêm đất chỗ thuyết pháp này. Và lúc Bồ Tát ngồi trên pháp tọa thuyết pháp còn phải rải hoa cúng dường.
Biết tâm niệm Thường Đề Bồ Tát, Thiên Ðế Thích liền đem ba ngàn thạch hoa trời mạn đà la trao cho Thường Đề Bồ Tát.
Ðược hoa rồi, Thường Đề Bồ Tát dùng phân nửa số hoa rải đất, còn phân nửa số hoa chờ lúc Ðàm Vô Kiệt Bồ Tát ra ngồi thuyết pháp sẽ cúng dường.
Lúc ấy Ðàm Vô Kiệt Bồ Tát nhập tam muội quá bảy năm rồi, từ tam muội dậy, vì thuyết Bát nhã ba la mật nên cùng vô lượng trăm ngàn vạn chúng cung kính vây quanh đến ngồi trên pháp tọa.
Lúc thấy Ðàm Vô Kiệt Bồ Tát, Thường Đề Bồ Tát lòng rất vui mừng như Tỳ Kheo nhập đệ tam thiền, bèn cùng trưởng giả nữ và năm trăm thị nữ đến chỗ Ðàm Vô Kiệt Bồ Tát rải hoa cúng dường, đầu mặt đảnh lễ rồi ngồi qua một phía.
Ðàm Vô Kiệt Bồ Tát thấy đại chúng ngồi xong, bèn bảo Thường Đề Bồ Tát rằng:
Này thiện nam tử! Lắng nghe và lãnh thọ kỹ. Nay tôi sẽ vì ông mà thuyết tướng Bát nhã ba la mật.
Này thiện nam tử! Vì các pháp bình đẳng nên phải biết Bát nhã ba la mật cũng bình đẳng. Vì các pháp rời lìa nên phải biết Bát nhã ba la mật cũng rời lìa. Vì các pháp bất động nên phải biết Bát nhã ba la mật cũng bất động. Vì các pháp vô niệm nên phải biết Bát nhã ba la mật cũng vô niệm. Vì các pháp vô úy nên phải biết Bát nhã ba la mật cũng vô úy. Vì các pháp nhứt vị nên phải biết Bát nhã ba la mật cũng nhứt vị. Vì các pháp vô biên nên phải biết Bát nhã ba la mật cũng vô biên. Vì các pháp vô sanh nên phải biết Bát nhã ba la mật cũng vô sanh. Vì các pháp vô diệt nên phải biết Bát nhã ba la mật cũng vô diệt. Vì hư không vô biên nên phải biết Bát nhã ba la mật cũng vô biên. Vì nước đại hải vô biên nên phải biết Bát nhã ba la mật cũng vô biên. Vì núi Tu Di trang nghiêm nên phải biết Bát nhã ba la mật cũng trang nghiêm. Vì hư không vô phân biệt nên phải biết Bát nhã ba la mật cũng vô phân biệt. Vì sắc vô biên nên phải biết Bát nhã ba la mật cũng vô biên. Vì thọ, tưởng, hành, thức vô biên nên phải biết Bát nhã ba la mật cũng vô biên. Vì địa chủng vô biên nên phải biết Bát nhã ba la mật cũng vô biên. Vì thủy chủng, hỏa chủng, phong chủng vô biên nên phải biết Bát nhã ba la mật cũng vô biên. Vì không chủng vô biên nên phải biết Bát nhã ba la mật cũng vô biên. Vì như kim cang bình đẳng nên phải biết Bát nhã ba la mật cũng bình đẳng. Vì các pháp vô phân biệt nên phải biết Bát nhã ba la mật cũng vô phân biệt. Vì các tánh bất khả đắc nên phải biết Bát nhã ba la mật cũng bất khả đắc. Vì các pháp vô sở hữu bình đẳng nên phải biết Bát nhã ba la mật cũng vô sở hữu bình đẳng. Vì các pháp vô tác nên phải biết Bát nhã ba la mật cũng vô tác. Vì các pháp bất khả tư nghì nên phải biết Bát nhã ba la mật cũng bất khả tư nghì.
Liền lúc ấy, Thường Đề Bồ Tát tại chỗ ngồi được các tam muội. Những là chư pháp đẳng tam muội, chư pháp ly tam muội, chư pháp vô úy tam muội, chư pháp nhứt vị tam muội, chư pháp vô sanh tam muội… Ðược sáu trăm vạn môn tam muội như vậy.
Ðức Phật bào Ngài Tu Bồ Ðế: “Như ta hôm nay ở trong tam thiên Ðại thiên thế giớ cùng chư tăng Tỳ kheo vây quanh, lấy tướng ấy, lấy tướng mạo ấy, lấy danh tự ấy thuyết Bát nhã ba la mật.
Thường Đề Bồ Tát được sáu trăm muôn tam muội ấy, thấy mười phương hằng sa chư Phật ở trong Ðại Thiên thế giới cùng chư Tăng Tỳ Kheo cung kính vây quanh, lấy tướng như vậy, lấy tướng mạo như vậy, lấy danh tự ấy thuyết đại Bát nhã ba la mật ấy cũng như vậy.
Từ thuở ấy về sau, Thường Đề Bồ Tát đa văn trí huệ chẳng nghĩ bàn được, như nước đại hải thường chẳng rời chư Phật, sanh nơi nước có Phật, nhẫn đến trong giấc mơ cũng chẳng có lúc nào chưa từng thấy Phật, tất cả các nạn thảy đều đã dứt, tại cõi nước Phật tùy theo nguyện sanh về.
Này Tu Bồ Ðề! phải biết nhơn duyên Bát nhã ba la mật ấy có thể thành tựu tất cả công đức Ðại Bồ Tát, được nhứt thiết chủng trí.
Này Tu Bồ Ðề! Vì thế nên chư Ðại Bồ Tát nếu muốn học sáu ba la mật, muốn thâm nhập chư Phật trí huệ, muốn được nhứt thiết chủng trí thì phải thọ trì Bát nhã ba la mật ấy, đọc tụng, chánh ức niệm, rộng vì người mà giảng thuyết, cũng biên chép quyển kinh, tôn trọng tán thán, cúng dường hương hoa nhẫn đến kỹ nhạc.
Tại sao vậy?
Vì Bát nhã ba la mật là mẹ của mười phương chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại. Mười phương chư Phật đều tôn trọng Bát nhã ba la mật vậy”.

1,530

ĐÂY LÀ TÂM TÔI, SÁNG TỎ VÀ TRỐNG KHÔNG - THIS IS MY MIND, LUMIMOUS AND EMPTY (Phật giáo song ngữ Việt - Anh)

Photo by Zoltan Tasi.Theo Kim Cang Thừa, con đường nhanh chóng để tỉnh thức là nhìn thẳng vào tâm của chính bạn và nhận ra bản tánh thật của tâm. Tsoknyi Rinpoche chỉ cho chúng ta làm sao kinh nghiệm  hai phẩm tánh sâu

468
KHÔNG SÁT SANH - Thiện Phúc (Song ngữ Việt - Anh)

KHÔNG SÁT SANH Thiện PhúcKhông Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc

14,422
ĐỨC TIN NHƯ SỰ TIN CẬY CHÂN THẬT - TAITETSU UNNO

Kinh nghiệm trung tâm của Phật giáo Chân tông được gọi là tín tâm (shinjin), thường được dịch là đức tin, nhưng bởi vì đức tin có vô vàn hàm ý, cần

749
Mặc Chiếu.- Cư sĩ Viên Giác dịch

Dưới đây là một trình bày về Thiền Mặc Chiếu, trích dịch một phần từ cuốn Hoofprint of the Ox (Dấu Chân Trâu) của Thiền Sư Thánh Nghiêm (Sheng Yen), dựa theo

19,199
NIỆM PHẬT NHƯ LÀ SỐNG - SỐNG NHƯ LÀ NIỆM PHẬT

NIỆM PHẬT NHƯ LÀ SỐNG - SỐNG NHƯ LÀ NIỆM PHẬTBất cứ khi nào một trong những học trò cao học của tôi đề nghị tôi viết vài từ chia tay, thói

579
Top Bài Viết
Quan Hệ Thầy Trò
Niệm Tự Bạch

QUAN HỆ THẦY TRÒ Theo Tinh thần Kinh Kế thừa Chánh pháp Thầy, vầng mây bậc, thong dong, núi cao biển rộng Con, cánh nhạn chiều, chân trời sải cánh, dõi theo Thầy,

33,238
Giữ giới là lựa chọn tự do
Phật học Ứng Dụng

Giữ giới là lựa chọn tự do  Giới luật của Phật giáo có nghĩa là: “Anh đừng tự làm thương tổn mình, anh đừng tự làm hại mình”. 1. Tự do của lệ thuộc

32,676
Đạo Phật là gì?
Niệm Tự Bạch

Đạo Phật là gì Lama Zopa and Lama Yeshe Khi bạn tìm hiểu về đạo Phật tức là bạn đang tìm hiểu về con người thật của mình, về bản chất của tâm trí

32,579
Vô minh bẩm sinh & Vô minh văn hóa
Tìm Hiểu & Học và Hành

Vô minh bẩm sinh & Vô minh văn hóa(VHPG) Mọi kinh nghiệm của chúng ta, kể cả giấc mộng, khởi lên từ vô minh. Đây là một tuyên bố làm hoảng hốt

32,349
Chùa Việt
Sách Đọc